5. Đóng góp mới của luận văn
- Được tổng hợp từ nguồn tư liệu phong phú, bao gồm tư liệu gốc, chuyên khảo, bài nghiên cứu có giá trị khoa học, luận văn đã trình bày đầy đủ các vấn đề thuộc lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862-1945 do triều Nguyễn và chính quyền thực dân Pháp tiến hành, góp thêm nhận định và bổ sung vào nhận thức chung về các vấn đề lịch sử Việt Nam.
- Luận văn góp phần khắc họa sâu sắc thêm quá trình giao lưu văn hóa Pháp - Việt trong lĩnh vực giáo dục, về vai trò và tác động quan hệ của nền giáo dục Việt Nam với yếu tố văn hóa ngoại lai đi cùng với nền cai trị của chủ nghĩa thực dân.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm tài liệu tham khảo có chất lượng cho học viên cao học, giáo viên, sinh viên, học sinh trung học và những người quan tâm đến lịch sử giáo dục Việt Nam.
6. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu được sử dụng để nghiên cứu đề tài luận văn bao gồm tư liệu gốc (chỉ dụ của vua Minh Mệnh, vua Tự Đức, điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nghị định, số liệu thống kê của chính quyền thực dân Pháp …), chuyên khảo, bài nghiên cứu được xuất bản thành sách, được đăng trên các tạp chí khoa học hoặc được phổ biến qua Internet. Thông qua các bản dịch của Lại Như Bằng, chúng tôi tiếp cận được một số tư liệu gốc bằng tiếng Pháp như Annuaire de la Cochinchine Française (1870, 1871, 1874, 1876, 1878, 1879, 1881), “Étude sur l’instruction publique en Conchinchine”, La langue française et l'enseignement en Indo-chine. Chúng tôi chú ý đến các chuyên khảo về nền giáo dục Việt Nam thời Pháp đô hộ của Phan Trọng Báu, Nguyễn Đình Đầu, Trần Thị Thanh Thanh, Trần Thị Phương Hoa … Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học vừa nêu đã gợi mở những hướng nhìn khác nhau đối với lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862- 1945, đồng thời cung cấp thêm những tư liệu tiếng Pháp mà chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận.
Tất cả những tài liệu nêu trên được chúng tôi trình bày trong “Danh mục Tài liệu tham khảo” và được tham khảo, sử dụng với tinh thần nghiêm túc, cẩn trọng để có những nhận thức chân xác và nhận định khách quan, thỏa đáng.
7. Cấu trúc của luận văn
Có thể bạn quan tâm!
- Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862 - 1945 - 1
- Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862 - 1945 - 2
- Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862 - 1945 - 4
- Chính Sách Cai Trị Của Thực Dân Pháp Ở Việt Nam: Từ “Đồng Hóa” Đến “Liên Hiệp”
- Yếu Tố Pháp - Việt Trong Lĩnh Vực Cải Cách Giáo Dục Ở Việt Nam Thời Kỳ 1862-1945
Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1. Con đường dẫn đến quan hệ văn hóa Pháp - Việt
Văn hóa phương Tây đã du nhập vào xã hội Việt Nam truyền thống cùng với giáo sỹ thừa sai và đoàn quân xâm lược. Tiếp sau những thắng lợi về quân sự, chính sách cai trị là nơi phản ánh thái độ của chính quyền thực dân Pháp đối với nền văn hóa Việt Nam. Nội dung của Chương 1 “Con đường dẫn đến quan hệ văn hóa Pháp - Việt” bao gồm 3 vấn đề: đạo Thiên Chúa - “Cửa ngõ” du nhập văn hóa phương Tây; quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858-1884); chính sách của thực dân Pháp ở Việt Nam: từ “đồng hóa” đến “liên hiệp”.
Chương 2. Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862-1945
Nền Nho học của thế kỷ XIX đã trở nên lỗi thời về nội dung và phương pháp, trở thành lực cản của sự phát triển xã hội. Phát xuất từ những động cơ khác nhau, triều Nguyễn và chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam đã đề ra những ý tưởng, chủ trương cải cách nền giáo dục hiện đang tồn tại. Quá trình chuyển đổi nền giáo dục Việt Nam từ Nho học sang Tây học (1862-1945), thông qua những lần cải cách, điều chỉnh giáo dục, đã phản ánh sự tương tác giữa yếu tố văn hóa Pháp và yếu tố văn hóa Việt để dẫn đến sự hiện diện của “yếu tố Pháp - Việt” trong chính sách giáo dục của nhà cầm quyền. Đây là nội dung chính của Chương 2 “Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862- 1945”.
Chương 3. Lĩnh vực cải cách giáo dục - Một biểu hiện của sự tương tác văn hóa Pháp - Việt
Trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862-1945, những nhân tố mới lạ có nguồn gốc từ văn hóa phương Tây, dù du nhập trong hoàn cảnh đất nước còn chủ quyền hay đã bị đô hộ, dù chỉ tồn tại trong ý tưởng hay được thể hiện trong thực tế đều phải thông qua lăng kính dân tộc trước khi hòa nhập và trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam. Văn hóa phương Tây là cơ sở hình thành ý tưởng cải cách giáo dục nhưng phương thức “tiếp nhận Việt Nam” [104, tr.151] cũng là nhân tố quan trọng tác động đến chính sách giáo dục của nhà cầm quyền. Chương 3 “Lĩnh vực cải cách giáo dục - Một biểu hiện của sự tương tác văn hóa Pháp - Việt” sẽ trình bày các vấn đề: văn hóa phương Tây - cơ sở hình
thành ý tưởng cải cách giáo dục; phương thức “tiếp nhận Việt Nam” trong lĩnh vực cải cách giáo dục; vai trò của chế độ thực dân Pháp trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục.
CHƯƠNG 1: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN QUAN HỆ VĂN HÓA PHÁP
- VIỆT
Văn hóa phương Tây đã du nhập vào xã hội Việt Nam truyền thống cùng với giáo sỹ thừa sai và đoàn quân xâm lược. Tiếp sau những thắng lợi về quân sự, chính sách cai trị là nơi phản ánh thái độ của chính quyền thực dân Pháp đối với nền văn hóa Việt Nam.
1.1. Đạo Thiên chúa - “Cửa ngõ” du nhập văn hóa phương Tây
Các câu chuyện trong “Nghìn lẻ một đêm”, “Cuốn sách những truyện kỳ lạ” của Macco Polo … đã vẽ lên trong trí tưởng tượng của người châu Âu hình ảnh một thế giới phương Đông giàu có, đầy vàng bạc, hương liệu và gia vị … Điều này đã trở thành động lực để các đoàn thuyền giương buồm viễn dương tìm sang phương Đông mỗi khi có điều kiện.
Sau những tháng năm dài đắm chìm trong “Đêm trường Trung cổ”, thế kỷ XVI chứng kiến những đổi thay sâu sắc ở Tây Âu: sinh hoạt thương mại được phục hồi, thành thị sống lại, kinh tế hàng hóa ra đời, tầng lớp thị dân (nhà buôn, nhà kinh doanh tài chính, thợ thủ công …) xuất hiện … [46, tr.136]. Sự phát triển kinh tế đã hình thành các thành thị (trung tâm thương nghiệp) và làm nảy sinh nhu cầu tìm kiếm thị trường ngoài châu Âu để trao đổi hàng hóa. Khu vực ven bờ Địa Trung Hải trở thành vùng thương mại nhộn nhịp những chuyến hàng xuôi ngược.
Thế kỷ XV, khi thương nhân đã phát triển thành một giai cấp đủ sức điều hành nền kinh tế, quý tộc có đủ uy tín, học thức để lãnh đạo những cuộc thám hiểm và khoa học hàng hải đạt được nhiều tiến bộ thì cũng là lúc bắt đầu những chuyến hải trình dài ngày tìm kiếm vùng đất mới và con đường sang phương Đông được tiến hành để thỏa mãn nhu cầu về thị trường, nguyên liệu cho Chủ nghĩa Tư bản châu Âu đang trong quá trình tích lũy nguyên thủy chuẩn bị cho những bước phát triển cao hơn. Thương mại trở thành nhịp dẫn cho chiếc cầu nối liền thế giới Đông - Tây.
Men theo con đường mà Vasco da Gama, Ferdinand de Magellan đã khám phá, các đoàn thuyền buôn châu Âu đã cập vào các cảng biển của Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản và các vương quốc Đông Nam Á để buôn bán, trao đổi hàng hóa và tìm kiếm thuộc địa, điều mà họ có được nhiều thành công ở châu Phi và Tân Lục địa (America). Trên những đoàn thuyền buôn, ngoài thương nhân, hàng hóa, còn có các giáo sĩ thừa sai khoác tấm áo choàng
đen, giương cao cây Thập Tự, nhận lãnh sứ mệnh mở rộng Thiên quốc của Đức Chúa Trời. Trong khi mang đến cho người Việt niềm tin về sự cứu rỗi, các vị chủ chăn cũng mang đến cho xã hội nông nghiệp phương Đông những xúc chạm đầu tiên với những thành tố văn hóa từ phương Tây.
Xã hội Việt Nam trong các thế kỷ XVI-XVIII là một thời kỳ tao loạn. Chinh chiến triền miên giữa các thế lực phong kiến đã gieo rắc đau thương, ly tán, đẩy dân chúng vào tình cảnh tuyệt vọng. Các giá trị văn hóa - tín ngưỡng truyền thống cũng trên bước đường suy thoái. Các giá trị đạo đức Nho giáo bị xâm phạm nghiêm trọng. Phật giáo, Đạo giáo cũng có những biểu hiện sai lạc. Sống trong một xã hội như vậy, con người dường như rơi vào khủng hoảng. Những cuộc chiến tranh, sự sụp đổ của ý thức hệ Nho giáo đã làm cho người dân mất niềm tin vào chính quyền đang cai trị họ. Cuộc sống thực tại đã quá tàn nhẫn, phủ phàng, niềm an ủi duy nhất để tiếp tục cuộc sống chỉ còn là tâm linh. Nhưng lúc này, người dân biết hướng vào đâu để gửi gắm những ưu tư, trăn trở của cõi lòng. Chính trong hoàn cảnh này, Thiên Chúa giáo du nhập vào Việt Nam. Các giáo sĩ rao giảng về Chúa Cứu Thế (Jésus Christ), về cuộc sống yên bình vĩnh viễn nơi Thiên Đàng, nơi đó, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, trước Chúa mọi người đều bình đẳng. Sự có mặt của đạo Thiên Chúa đã mở ra con đường mới cho nhu cầu tâm linh của một bộ phận dân chúng Việt Nam. Bên cạnh các loại hình tín ngưỡng truyền thống, người dân có dịp tiếp xúc với một tôn giáo mới, đến từ phương Tây, với nhiều lạ lẫm. Thiên Chúa giáo có hệ thống thần học cao siêu và giáo lý chặt chẽ đủ sức thuyết phục, giải tỏa những ưu tư, nghi hoặc của người dân về những lời phán truyền của Đấng Sáng tạo và con đường đi đến Thiên Đàng. Do đó, dù chứa nhiều yếu tố khác hẳn với tín ngưỡng truyền thống, dù bị triều đình cấm ngặt, nhưng bản thân đạo Thiên Chúa vẫn có sức hấp dẫn nhất định. Một bộ phận người dân vẫn cúi đầu thành kính trước Thập giá dẫu họ biết rằng như thế là chống lại triều đình, chống lại niềm tin đối với tổ tiên. Có thể đạo Thiên Chúa đã mang đến cho những con chiên lạc loài niềm an ủi, đã gieo niềm tin mới vào cuộc sống của họ.
Đạo Thiên Chúa là “cửa ngõ”, qua đó, những thành tố văn hóa phương Tây có điều kiện du nhập vào Việt Nam. Công việc truyền giáo đặt ra yêu cầu các giáo sĩ phải hiểu tiếng nói, giảng đạo bằng tiếng của người bản xứ. Đây là động cơ chính để các giáo sĩ, từ Francisco de Pina, Graspar de Amaral, Antonio Barbosa đến Alexandre de Rhode nối tiếp nhau ký âm tiếng Việt bằng chữ cái Latin, và cùng với sự tham gia của những người Việt Nam đương thời, tạo thành chữ Quốc ngữ. Năm 1651, cuốn Từ điển Việt - Bồ - Latin và
cuốn “Giáo lý” của Alexandre de Rhode ra đời. Tiếp tục trải qua hai lần chỉnh lý của Pigneau de Béhaine với “Từ điển Annam - Latin” (1772) và của Tabert (cộng tác với Dương Văn Minh) với “Từ điển Annam - Latin và Latin - Annam”, chữ Quốc ngữ đã đủ điều kiện vượt ra khỏi phạm vi Nhà Thờ để trở thành văn tự được sử dụng rộng rãi. Không dừng lại trong cộng đồng giáo dân, những tri thức khoa học phương Tây đã được các giáo sĩ mang vào tận phủ Chúa. Alexandre de Rhode đã tạo được sự chú ý của Chúa Trịnh Tráng (1623- 1657): “Đang khi chúng tôi ở Kẻ Ro, vua đi vắng mới về, chúng tôi ra đón và dâng một quyển thiên văn bằng chữ Nho, chúng tôi cắt nghĩa các tranh vẽ trong ấy cho vua mừng. Ngày khác, chúa mời chúng tôi dẫn các then máy đồng hồ chúng tôi dâng cho người thì người lấy làm thích thú lắm” [dẫn theo 53, tr.94-95]. Ở Đàng Trong, các Thừa sai cũng đảm nhận nhiều công việc quan trọng. Năm 1686, Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đã dùng Bartholomêô da Costa làm người chăm sóc sức khỏe. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đã dùng Antonio de Aruedo năm 1704 và De Lima năm 1724 để dạy ông toán và thiên văn học. Năm 1752, Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) sử dụng thừa sai dòng Tên Xavier de Moteiro, nhà hình học và Jean de Loureira, bác sĩ [dẫn theo 64, tr.107-108].
Những ảnh hưởng trong lĩnh vực quân sự của phương Tây đối với Việt Nam đã diễn ra từ thế kỷ XVII, khi Chúa Nguyễn ở Đàng Trong và Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài luôn “mong nhờ vả được của các lái phương Tây những phương tiện quân sự (vũ khí, huấn luyện, can thiệp võ trang) để đè bẹp đối phương” [dẫn theo 137, tr.67]. Do đó, “mặc dù, tự thâm tâm, thù ghét việc truyền bá đức tin Kitô giáo trong lãnh thổ của mình, họ Nguyễn cũng ít nhiều nhắm mắt làm ngơ trước sự có mặt của các thừa sai Công giáo Roma với mục đích là có được súng và đại pháo từ Macao” [64, tr.107]. Khoảng thời gian ở Gia Định tập hợp lực lượng chuẩn bị phản công Tây Sơn, trong lực lượng quân sự của Nguyễn Ánh (sau này là vua Gia Long), đã có sự tham gia của người châu Âu, thông qua trung gian là Đức Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc). Từ trước, Giám mục Bá Đa Lộc đã dịch sang tiếng Việt những binh pháp của phương Tây để Nguyễn Ánh tham khảo, quân sĩ phải học thuộc những nội dung này. Hiệp ước Versailles (28/11/1787) không có điều kiện thực hiện (do sự bùng nổ của cuộc Cách mạng tư sản Pháp - 1789), bằng uy tín cá nhân, Bá Đa Lộc đã đứng ra vận động tầng lớp tư sản, sỹ quan hải quân, sắm khí giới và mộ người sang giúp Nguyễn Ánh. Từ đây quân đội Nguyễn Vương đã có những yếu tố của nền quân sự châu Âu, bao gồm tổ chức và huấn luyện lực lượng, xây dựng thành lũy kiểu Vauban, theo Lemonnier, một tướng lĩnh Pháp, “ … Những cuộc hành binh của vua xứ Nam Kỳ giống nhau một cách
kì lạ với những cuộc hành binh của Đệ nhất cộng hòa Pháp, giống nhau cả về tổ chức, về vũ khí và nhất là về ảnh hưởng của các nhà quân sự Pháp cuối thế kỷ XVIII” [dẫn theo 80, tr.45].
Từ thời vua Minh Mệnh (1820-1840), quan hệ giữa nhà Nguyễn với phương Tây đã dần đến chỗ tuyệt giao. Tuy vậy, để “hiện đại hóa quân đội”, nhà Nguyễn đã sai người sang phương Tây mua thuyền máy với giá rất cao; vua Tự Đức (1848-1883) cũng ra lệnh phải mua súng của nước ngoài và đúc thêm súng ở trong nước. Một sĩ quan người Pháp khi đánh chiếm Nam Kỳ đã nhận thấy: “Vũ khí của người Nam dùng rất nhiều và khác nhau, súng thì có những đại bác đủ cỡ mà phần nhiều là loại nhỏ, những súng trường miệng loe (espingoles), những bích kích pháo, súng đá mang nhãn hiệu của xưởng Saint Etienne” [dẫn theo 65, tr.382]. Cùng với sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa nhà Nguyễn và phương Tây, những ảnh hưởng quân sự nêu trên cũng ngày càng mờ nhạt, chỉ còn lại mối quan tâm của triều đình trong việc chế tạo những chiếc thuyền máy theo kiểu châu Âu để, theo lời vua Thiệu Trị nói với bộ Công: “Thuyền có đốt lửa do người ngoại quốc chế. Người ngoại quốc chuyên dùng để tải hàng hóa buôn bán, thu lấy nhiều lời; nước ta dùng để làm cho việc vũ bị được nghiêm” [dẫn theo 85, tr.90-91]. Cũng nên lưu ý rằng, cách xây dựng thành lũy và vũ khí mà phương Tây du nhập vào Việt Nam đã lạc hậu so với thời đại. Những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây trong lĩnh vực quân sự chỉ có thể góp phần giúp nhà Nguyễn chứng tỏ uy vũ trước lân bang, nhưng không thể sánh kịp với trình độ phát triển của châu Âu. Đây là một trong những hạn chế của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược sau này.
“Các giáo sĩ thừa sai Cơ đốc giáo không chỉ chuyển tải niềm tin của họ, Thánh kinh và lối suy nghĩ phương Tây, mà còn đem theo cả xà phòng và bàn chải đánh răng, phép vệ sinh, các bệnh viện và các yếu tố khác của “nền văn hóa phương Tây” [dẫn theo 53, tr.299]. Đức tin Thiên Chúa đã mở đường cho những thành tố của văn hóa phương Tây đến với xã hội Việt Nam truyền thống. Dù còn nhiều lạ lẫm và trong buổi ban đầu, sự du nhập và tiếp nhận văn hóa đi cùng với những toan tính: các giáo sĩ phô trương khả năng của mình để thuận tiện hơn trong việc truyền đạo, còn Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn giao thiệp với phương Tây để có được vũ khí, nhưng sự tiếp nhận này đã làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc, tạo những tiền đề cần thiết để khi thực dân Pháp hiện diện và tiến hành cuộc “chinh phục tinh thần”, người Việt Nam sẽ không quá ngỡ ngàng.
1.2. Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858-1884)
Giáo sĩ thừa sai, trong khi thi hành sứ mệnh truyền bá đức tin Thiên Chúa, đã để tâm đến vấn đề thuộc địa. Bởi, đây là sự kết hợp quyền lợi giữa tôn giáo và thế tục: nếu sự truyền giáo dựa vào đô hộ của châu Âu thì, ngược lại, sự đô hộ này, để được vững chắc, cũng phải tìm hậu thuẫn về lý thuyết cũng như về thực hành nơi thừa sai và nơi chính tôn giáo mới [115, tr.10].
Bằng thư từ đệ trình lên Hoàng Đế và những lời phát biểu tại các phiên họp, các thừa sai đã tạo nên trong nhận thức của Napoléon III và thần dân của Ngài về một xứ Annam giàu có - “Nước Pháp sẽ tìm thấy ở xứ sở đẹp đẽ này nhiều mỏ vàng, bạc, đồng, sắt và than đá, nhiều gỗ tốt để đóng tàu; Pháp sẽ có một hải cảng an toàn cho các hạm đội và thực phẩm cho lính thủy của mình … Tại đó người ta còn có thể thiết lập một nền thương mại quan trọng về gạo, bông, muối, cau, lụa, tơ cùng nhiều mặt hàng khác …” [dẫn theo 115, tr.61-62], dễ dàng chiếm đóng mà “không tốn kém gì cả cho nước Pháp”, còn dân chúng thì đang “rên xiết dưới chế độ bạo tàn kinh khủng nhất … sẽ đón tiếp chúng ta như những người giải phóng và ân nhân” [dẫn theo 115, tr.51]. Được sự ủng hộ của Ủy ban Nam Kỳ, tháng 11/1857, Napoléon III đã ra lệnh can thiệp vào Việt Nam dù trước đó không lâu, Bộ trưởng Ngoại giao Walewski, đã cho Hoàng Đế biết rằng vấn đề Nam Kỳ đã không nhận được sự tán thành nơi các đồng sự. Quyết định này có vẻ mâu thuẫn với chính sách mà nền ngoại giao Pháp đương thời đã ấn định nhưng lại thỏa mãn thỉnh cầu của những người Thiên Chúa giáo, lực lượng ủng hộ cần thiết của nền Đệ Nhị đế chế. Tán đồng quan điểm của Hoàng Đế, Rigault de Genouilly lên đường đến “Nam Kỳ” với sứ mệnh chính là bảo vệ, bằng đại bác và tàu chiến, sự truyền giáo của các thừa sai và mang ánh sáng văn minh đến cho dân tộc Việt Nam, kèm theo một mục tiêu hoàn toàn ở vai trò thứ yếu: thăm dò khả năng thiết lập một chế độ bảo hộ [115, tr.87-88].
Đà Nẵng được chọn làm điểm tấn công đầu tiên vì nơi đây “quả là chỗ neo tàu khá an toàn cả trong mùa gió đông - bắc; và vì nó gần kinh đô Huế, việc chiếm đóng nó sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng trên chính quyền Đông Dương. Áp lực này sẽ buộc họ chấp nhận mọi điều kiện mà chúng ta xét là vừa phải để áp đặt lên họ” [dẫn theo 115, tr.92]. Chiều 31/8/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Mờ sáng 1/9, đại bác của liên quân bắn tới tấp vào Đà Nẵng. Trước thế tiến công, dân chúng lập tức thực hiện “vườn không nhà trống”, phối hợp với quân do Nguyễn Tri Phương chỉ huy đắp lũy
phòng ngự. Bị cô lập giữa bãi cát với mấy đồn vừa chiếm, Đô đốc Gigault de Genoilly mới