chức. “Yếu tố Pháp - Việt” trong nền giáo dục Việt Nam thời Pháp đô hộ là kết quả của sự dung hòa giữa mục đích thiết lập, chủ trương cải cách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với thái độ, trình độ tiếp nhận của người bản xứ; sự kết hợp giữa yếu tố Pháp: tiếng Pháp, hệ thống môn học chuyển tải tri thức khoa học phương Tây, hệ thống bằng cấp … và yếu tố Việt: chữ Nho, Nam sử, Việt văn … được thể hiện rõ trong chương trình học và hệ thống tổ chức giáo dục. Sự hiện diện của “yếu tố Pháp - Việt” còn phản ánh quá trình tiếp xúc, tiếp nhận, tiếp biến và tương tác của hai nền văn hóa theo hai triết lý khác nhau trong hoàn cảnh thuộc địa.
“Giáo dục”, theo nghĩa rộng, là hoạt động giáo dục tổng thể hình thành và phát triển nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm phát triển tối đa những tiềm năng (sức mạnh thể chất và tinh thần) của con người; theo nghĩa hẹp, là một bộ phận của hoạt động giáo dục (nghĩa rộng), là hoạt động giáo dục nhằm hình thành thế giới quan khoa học, tư tưởng chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, lao động, phát triển thể lực, những hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn của cá nhân trong các mối quan hệ xã hội [51, tr.29,30]; hay theo Đào Duy Anh, giáo dục mang nghĩa “dạy dỗ người ta khiến cho thoát ly cái trạng thái tự nhiên của tạo vật sinh ra (éducation)” [2, tr.330]. Trong luận văn, thuật ngữ “giáo dục” dùng để chỉ nền Nho học thời Nguyễn và nền giáo dục Phổ thông (instruction général/normal education) thời Pháp đô hộ (gồm 2 bậc học là Tiểu học và Trung học), không bao gồm giáo dục gia đình - xã hội, giáo dục dân gian, nền giáo dục dành cho người Pháp cư trú ở Việt Nam, các trường tư của giáo hội, giáo dục Cao đẳng, Đại học và hệ thống trường nghề … Do vậy, “cải cách giáo dục” là cải cách nền Nho học và nền giáo dục Phổ thông thời Pháp đô hộ. Giáo dục được nghiên cứu như một lĩnh vực riêng, phân biệt với các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật … Các vấn đề thuộc lĩnh vực cải cách giáo dục mà luận văn sẽ tìm hiểu là: quan điểm về giáo dục trong tư tưởng canh tân thời Nguyễn; nội dung giáo dục trong chính sách cai trị, mục tiêu và tổ chức giáo dục; quá trình chuyển đổi nền giáo dục Việt Nam từ Nho học sang Tây học …
Từ “Việt Nam” trong tên đề tài dùng để chỉ “quốc gia Việt Nam”, là một thực thể chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, có quan hệ giao lưu với bên ngoài từ lâu đời, có chủ quyền, biên giới, có dân tộc, quốc tộc, có quá trình di cư, cộng cư trong lịch sử, có quá trình giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa, dung hợp văn hóa [105, tr.2]. Chủ quyền quốc gia Việt Nam lần lượt bị thực dân Pháp tước đoạt ở Đông Nam Kỳ (1862), Tây Nam Kỳ (1874) và toàn lãnh thổ (1884); trong thời gian 1887-1945, Việt Nam là bộ phận của Liên bang Đông
Dương thuộc Pháp. Như vậy, nội dung lịch sử của thời kỳ 1862-1945 là: Việt Nam quân chủ, phụ thuộc dưới sự đô hộ của thực dân Pháp [106, tr.13-14].
Luận văn xem xét lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862-1945, tức là từ lúc triều đình Huế chính thức thừa nhận chủ quyền của thực dân Pháp ở 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) bằng Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862) cho đến khi phát xít Nhật tiến hành đảo chính Pháp (9/3/1945). Trong thời gian này, triều Nguyễn (vua Tự Đức, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ …), nhà cầm quyền Pháp, các sỹ phu của phong trào Duy Tân (đầu thế kỷ XX) đã có những ý tưởng, chủ trương cải cách nền Nho học hiện đang tồn tại. Ưu thế về quân sự và sự xác lập nền thống trị đã mang đến cho người Pháp quyền chủ động tiến hành những cải cách giáo dục nhằm kế tục sự nghiệp chinh phục mà người lính đang hoàn thành. Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), nền giáo dục Việt Nam diễn ra sự thay đổi quan trọng: áp dụng nền giáo dục hoàn toàn bằng tiếng Việt theo chương trình Hoàng Xuân Hãn [xem 108, tr.13-14], sau đó, cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, nền giáo dục Việt Nam chuyển hẳn sang giai đoạn mới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu, kết hợp với phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh để tìm hiểu vấn đề.
Tuân theo phương pháp lịch sử, chúng tôi trình bày lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam theo tiến trình thời gian trong thời kỳ 1862-1945. Vấn đề cải cách giáo dục trong thời Nguyễn được trình bày từ những ý tưởng của vua Minh Mệnh, vua Tự Đức đến những kiến nghị của các sỹ phu: Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ … Quá trình xác lập nền Tây học ở Việt Nam được trình bày từ Nam Kỳ đến Bắc và Trung Kỳ thông qua các chủ trương cải cách, điều chỉnh giáo dục của Bonard, Krant, Lafont, Paul Bert, Paul Beau, Klobukowsky, Albert Sarraut, Martial Merlin, Alexandre Varenne.
Tuân theo phương pháp logic tức là dựa trên những sự kiện, hiện tượng lịch sử, chúng tôi sẽ khái quát, rút ra bản chất, ý nghĩa của vấn đề. Từ việc trình bày những ý tưởng cải cách giáo dục của vua Minh Mệnh, vua Tự Đức, các sỹ phu Nho học và chủ trương cải cách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp, chúng tôi lý giải nguyên nhân nảy sinh những ý tưởng, chủ trương cải cách giáo dục; nguyên nhân một số ý tưởng, chủ trương cải cách giáo dục không được thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả nên phải tiến hành thay đổi điều chỉnh; trình bày nhận thức về: sự hiện diện của “yếu tố Pháp - Việt” trong lĩnh vực cải cách
Có thể bạn quan tâm!
- Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862 - 1945 - 1
- Con Đường Dẫn Đến Quan Hệ Văn Hóa Pháp - Việt
- Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862 - 1945 - 4
- Chính Sách Cai Trị Của Thực Dân Pháp Ở Việt Nam: Từ “Đồng Hóa” Đến “Liên Hiệp”
Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.
1F
giáo dục, cơ sở hình thành ý tưởng cải cách giáo dục, phương thức “tiếp nhận Việt Nam”2 trong lĩnh vực cải cách giáo dục, vai trò của chế độ thực dân Pháp trong lĩnh vực cải cách giáo dục.
Chúng tôi đã sử dụng quan điểm, nhận định về nền giáo dục Việt Nam thời Pháp đô hộ của các chuyên gia thể hiện trong các chuyên khảo, bài nghiên cứu để làm cơ sở tìm hiểu hiểu vấn đề. Kết quả nghiên cứu được công bố và nguồn tài liệu mà các chuyên gia đã khai thác là những cơ sở để chúng tôi lập luận, trình bày nội dung vấn đề theo hướng tán đồng hay phản biện, bổ khuyết cho sự hạn chế về tài liệu gốc mà chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận.
Phương pháp so sánh được chúng tôi sử dụng khi trình bày quá trình xác lập nền giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam để chỉ ra những điểm mới, điểm khác trong chương trình học và hệ thống tổ chức của cuộc cải cách hay điều chỉnh giáo dục sau so với cuộc cải cách hay điều chỉnh giáo dục liền trước đó. Kết quả so sánh là một cứ liệu để chúng tôi đánh giá những tiến bộ hay hạn chế, tính phù hợp hay không phù hợp của những chủ trương cải cách giáo dục đối với thái độ, trình độ tiếp nhận của dân bản xứ.
Các phương pháp nêu trên được chúng tôi vận dụng liên tục, đan xen trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Theo đó, trình tự trình bày các vấn đề thuộc lĩnh vực cải cách giáo dục như sau: Khởi đầu là hoàn cảnh lịch sử - điều kiện lịch sử và yêu cầu đổi mới; tiếp đến là ý tưởng, chủ trương cải cách giáo dục và quá trình tổ chức nền giáo dục, kết hợp so sánh với nền giáo dục trước cải cách để chỉ ra những nội dung được kế thừa, những nội dung mới và sau cùng, lý giải nguyên nhân những ý tưởng, kiến nghị cải cách giáo dục không được thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả, nhận định về sự tồn tại của “yếu tố Pháp - Việt” và yếu tố “mới” trong các chủ trương cải cách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp và đánh giá tác động của các cuộc cải cách giáo dục này đối với sự phát triển của nền giáo dục, văn hóa - xã hội Việt Nam.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các vấn đề của nền giáo dục Việt Nam thời Nguyễn và thời Pháp đô hộ (1862- 1945) đã được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, thể hiện qua một số công trình sau:
Khởi đầu của quá trình nghiên cứu nền giáo dục Pháp ở Việt Nam là các bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử năm 1967, của Nguyễn Trọng Hoàng là “Chính sách
2 Từ dùng của Trần Thị Thanh Thanh (2010) trong Quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong các thế kỷ X-XX, Báo cáo tổng kết Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp Bộ, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh [xem 105, tr.151]
giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam” (số 96/1967); của Nguyễn Anh là “Vài nét về giáo dục ở Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất” (số 98/1967), “Vài nét về giáo dục ở Việt Nam từ sau Đại chiến thế giới lần thứ Nhất đến Cách mạng tháng Tám” (số 102/1967). Quan tâm đến chính sách giáo dục, Nguyễn Trọng Hoàng khẳng định: “Làm cho ngu dân để dễ trị”, đó là thực chất của cái gọi là “chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam” [47, tr.16]; còn Nguyễn Anh, sau khi lý giải nguyên nhân của các cuộc cải cách giáo dục được nhà cầm quyền Pháp thực hiện ở Việt Nam là để “đối phó với tình thế, đối phó với nhân dân ta chứ không phải vì sự phát triển của giáo dục theo đúng nghĩa của nó” [5, tr.45], đã kết luận: “Dìm dân tộc ta trong vòng thất học, ngăn chặn mọi ánh sáng tiến bộ bên ngoài tràn vào nhà trường là chính sách giáo dục trước sau như một của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Biến học sinh thành những người vong bản, xa rời nhân dân, quên quá khứ quang vinh và truyền thống anh dũng của dân tộc mình, chỉ biết hàm ơn và phục tùng chúng, cung cấp cho họ một ít hiểu biết vừa đủ để làm được viên chức thừa hành hạng nhỏ, đó là mục đích của giáo dục thực dân đối với nhân dân ta” [5, tr.46]. Những nhận định vừa nêu đã ảnh hưởng lâu dài đến quan điểm đánh giá nền giáo dục Pháp - Việt của nhiều nhà khoa học ở Việt Nam.
Năm 1985, Vũ Ngọc Khánh xuất bản cuốn Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945. Cho rằng “Đế quốc Pháp xâm chiếm nước ta đã mang theo, cùng với những chính sách bình định, khủng bố, cai trị của chúng, cả một âm mưu xảo quyệt trong giáo dục. Về cả hai mặt tổ chức và nội dung, chính sách văn hóa giáo dục thực dân là một chính sách thâm hiểm rất tinh vi, khôn khéo” [54, tr.159], tác giả đã có những nhận xét gay gắt về nền giáo dục thực dân: “Ngăn cản và xuyên tạc tinh thần dân tộc, tinh thần quốc tế, thực dân Pháp cũng tìm cách bưng bít, không cho cõi học Việt Nam được tiếp xúc những phát minh khoa học, những tư tưởng tiến bộ ở nước ngoài” [54, tr.165], “Ta đã nói đến chủ trương kìm hãm trong việc mở trường hạn tuổi, ngăn cản con em nhà nghèo, con em cách mạng. Nội dung giáo dục trong các chương trình học khóa cũng lại là một nội dung xa nhân dân, xa đại chúng. Từ bậc sơ học, tiếng nói của nhân dân đã bị coi rẻ cho đến khi bị gạt bỏ hoàn toàn” [54, tr.166]. Vũ Ngọc Khánh xem “Ảnh hưởng của nền học Pháp với nền giáo dục Việt Nam” là “những biến đổi tất nhiên” [54, tr.170], trong đó, “những quan niệm lạc hậu lại tô đậm” [54, tr.172], đồng thời còn có thêm “những ảnh hưởng tai hại mới” [54, tr.174] như: “đem đến cho không ít người trí thức Việt Nam một số nếp suy nghĩ lệch lạc mà cứ tưởng là chân lí” [54, tr.174], “lớp người trẻ tuổi ấy càng nhiễm sâu chủ nghĩa cá nhân, thứ bệnh vốn
trong thời kì phong kiến cũng chẳng phải là không trầm trọng. Cả hai loại chủ nghĩa cá nhân cũ và mới đã thừa cơ hội của chính sách giáo dục thực dân mà lũng đoạn tâm hồn bao nhiêu thế hệ” [54, tr.178].
Được xuất bản năm 1995, tái bản năm 2006, cuốn Giáo dục Việt Nam thời Cận đại của Phan Trọng Báu gồm chương mở đầu “Giáo dục Việt Nam dưới triều Nguyễn - Sự suy tàn của nền giáo dục phong kiến” và 2 phần: “Sự hình thành và phát triển nền giáo dục Việt Nam thời cận đại”, “Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực giáo dục: Sự ra đời và phát triển dòng giáo dục yêu nước và cách mạng”. Trong đó, tác giả đã đề cập đến cuộc cải cách giáo dục thời Nguyễn và những cuộc cải cách giáo dục do Paul Beau và Albert Sarraut khởi xướng vào các năm 1906 và 1917. Tuy chưa trình bày rõ về những thay đổi trong chương trình học và hệ thống thống tổ chức trong từng cuộc cải cách nhưng nội dung của cuốn sách đã mang đến nhận thức khái quát về những chuyển biến của nền giáo dục Việt Nam thời Pháp đô hộ, đồng thời các luận điểm ở phần kết luận là những tiền đề nghiên cứu quan trọng.
Nguyễn Đăng Tiến và cộng sự đã dành 2 chương trong cuốn Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng Tám - 1945 (1996) để trình bày khái quát về “Giáo dục Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1945)” (Chương VI), “Giáo dục Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1858-1945)” (Chương VII). Chủ yếu dẫn lại tư liệu từ các bài nghiên cứu của Nguyễn Trọng Hoàng, Nguyễn Anh, các tác giả đã nhận định về kết quả của nền giáo dục Pháp - Việt như sau: “Chúng [thực dân Pháp] nghĩ rằng, có thể tiến công dễ dàng vào lĩnh vực giáo dục, chúng hi vọng với chiêu bài “văn minh Tây phương” đưa ra, sẽ mua chuộc được nhân dân ta, nhưng chúng đã lầm. Chính trong lĩnh vực giáo dục này, chúng cũng phải đương đầu với sự chống trả quyết liệt của nhân dân ta. Từ những tên võ quan đề đốc ban đầu của Bôna, Laphông, cho đến loại văn quan sau này như PônBe, Bô, Cơlôbuy Côpxơki, Xarô, Méclanh đã thay chân nhau nửa thế kỉ, đưa hết nghị định này đến nghị định khác, rồi đến “cải cách” mà kết quả vẫn không đáng kể như chúng mong muốn. Tất nhiên trong khoảng thời gian dài cai trị đó, chúng cũng làm được một số việc, đó là thực dân hóa nền giáo dục phong kiến rồi đi đến thủ tiêu nền giáo dục cũ, lập ra nền giáo dục mới, củng cố và phát triển, mở rộng nền giáo dục thực dân ở Việt Nam” [117, tr.216].
Trong cuốn Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh - Tập II: Văn học - Báo chí - Giáo dục do Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng chủ biên, xuất bản năm 1998, Nguyễn Đình Đầu đã trình bày khái quát vấn đề “Giáo dục dưới triều Nguyễn và dưới thời Pháp (1698- 1955)” thông qua các đề mục “Tổ chức giáo dục và thi cử ở Sài Gòn - Gia Định từ 1698 đến
1859”, “Nền giáo dục Sài Gòn dưới thời Pháp thuộc từ 1859 đến 1955”. Tác giả đã phác thảo quá trình hình thành, phát triển và chuyển đổi nền giáo dục từ Nho học sang Tây học ở vùng đất Sài Gòn đồng thời đã lược dịch, tóm lược những văn bản pháp quy về giáo dục do nhà cầm quyền Pháp ban hành như: Nghị định 17/11/1874, Nghị định 17/3/1879, Quy phạm học chính (1918) và cung cấp những số liệu về trường học, học sinh đáng tin cậy. Tuy nhiên, Nguyễn Đình Đầu chưa có những đánh giá mới về nền giáo dục Pháp - Việt mà “hoàn toàn nhất trí” với những nhận định đã trở nên quen thuộc: “Phê phán nó [giáo dục Pháp - Việt] là dùng chữ quốc ngữ la tinh trong giáo dục để cắt đứt truyền thống văn hóa nho học của dân ta; lên án nó [giáo dục Pháp - Việt] là lấy tiếng Pháp làm chuyển ngữ chính trong đào tạo mọi ngành khoa học và tuyên truyền tính hơn hẳn của văn hóa Pháp hay công ơn của thực dân Pháp; chúng ta hoàn toàn nhất trí với những ý kiến phê phán và nhận định đó” [32, tr.747-748].
Năm 2012, tác giả Trần Thị Thanh Thanh trình hội đồng nghiệm thu tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp cơ sở: “Hỏi và đáp về nền giáo dục Nam Bộ thời kỳ 1867-1945”. Trong công trình chuyên khảo này, tác giả đã trình bày quá trình lịch sử của nền giáo dục Nam Bộ từ 1867 đến 1945 theo kiểu “Hỏi và đáp”, chú trọng đến diện mạo của hệ thống giáo dục nhà trường ở Nam Bộ trong thời Pháp đô hộ trên các mặt: tổ chức, chương trình, quy mô, nội dung cải cách, tác động văn hóa - xã hội … Tuy khẳng định “Thực dân Pháp đã quan tâm đến giáo dục, không hoàn toàn là để “khai hóa”, “khai sáng” văn minh, mà thực tế là phục vụ công cuộc “khai thác” thuộc địa, xuất phát từ lợi ích của chính nước Pháp”[106, tr.95] nhưng không dừng lại ở việc chỉ ra “những điểm tiêu cực của nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ” [xem 106, tr.94-95], tác giả đã nêu “ảnh hưởng tích cực của nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ” như “nền giáo dục này ít nhiều mang đến cho người Việt Nam một hệ thống tri thức mới, thiết thực hơn, đa dạng hơn so với nền giáo dục cũ, đáp ứng được phần nào yêu cầu của cuộc sống thực tiễn” [106, tr.92-93], “chương trình học của nền giáo dục mới đã dần dần thay thế những nguyên lý Nho giáo xưa cũ, tách nền giáo dục Việt Nam khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa, đặt nền tảng xây dựng nền giáo dục theo hướng hiện đại, một nền giáo dục chú trọng “thực nghiệp” và “hợp thời” [106, tr.93-94], “nền giáo dục mới đã góp phần làm hình thành một lớp trí thức “tân học” tuy ít ỏi nhưng có trình độ về khoa học và tư tưởng, có nhận thức và tinh thần yêu nước sâu sắc hơn, phần nào có sự độc lập với chế độ chính trị đương thời
…” [106, tr.94].
Cũng trong năm 2012, tác giả Trần Thị Phương Hoa đã công bố công trình nghiên cứu Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945). Sau khi khảo sát nền giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ qua các thời kỳ: cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, đầu thế kỷ XX - 1917, 1917- 1930, 1930-1945, tác giả đã “dựa trên quan điểm tiến bộ xã hội và lợi ích quốc gia, dân tộc” [43, tr.244] để nhận định mặt “tích cực”: “Trường Pháp - Việt chính là cầu nối giữa Nho học truyền thống với giáo dục Việt Nam hiện đại” [43, tr.245], “Là một thiết chế giáo dục quan trọng bậc nhất trong việc đào tạo các trí thức Việt Nam kiểu mới, trường Pháp - Việt có vai trò làm biến đổi cơ cấu xã hội” [43, tr.246], “Học sinh và giáo viên trường Pháp - Việt đã đóng một vai trò quan trọng trong phong trào giành độc lập dân tộc mà đỉnh cao là Cách mạng tháng Tám 1945” [43, tr.246], còn những hạn chế được xem xét từ cơ chế quản lý, mục tiêu giáo dục, chương trình học, cơ sở vật chất, trình độ giáo viên … [xem 43, tr.247]. Các quan điểm vừa nêu đã được thể hiện, ở những mức độ khác nhau, trong một số bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học như: “Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1906- 1945) và cải cách giáo dục ở Nhật Bản thời Minh Trị” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á - 2006), “Franco-Vietnamese School and the Transition from Confucian to the New Kind of Intellectuals in the Colonial Context” (Nhà trường Pháp - Việt và sự chuyển đổi từ Nho học sang kiểu trí thức mới trong hoàn cảnh thuộc địa) (European Studies Review - 2008), “Giáo dục ở Bắc Kỳ đầu thế kỷ XX đến năm 1915 - chuyển đổi các trường Nho giáo sang trường Pháp - Việt” (Tạp chí Nghiên cứu châu Âu - 2010) … trong đó, đáng chú ý nhất là bài viết “Các cải cách giáo dục và khủng hoảng của nhà trường Pháp - Việt cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX” in trong Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới (2011) với luận đề: “Ba cải cách quan trọng của nhà trường Pháp - Việt ở Bắc Kỳ (1906, 1917, 1926) là không thành công nhìn từ quan điểm giáo dục đại chúng” [41, tr.283].
Trong phần Dẫn luận của Luận án Tiến sĩ “Giáo dục Pháp - Việt ở Bắc Kỳ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945” được trích đăng trên Tạp chí Xưa & Nay số 426-4/2013, Trần Thị Phương Hoa đã điểm qua một số công trình nghiên cứu về giáo dục ở Việt Nam thời Pháp được công bố ở nước ngoài như: Hoàng Thị Trợ (1965), Changements dans la politique scolaire au Viet-Nam depuis 1906 (Những thay đổi về chính sách giáo dục ở Việt Nam kể từ năm 1906); Dương Đức Như (1978), Education in Vietnam under the French Domination 1862-1945 (Giáo dục ở Việt Nam thời Pháp đô hộ, 1862-1945); Gail Kelly (1975), Franco - Vietnamese Schools, 1918-1938 (Nhà trường Pháp - Việt, 1918-1938), Trịnh Văn Thảo (1995), L’École francaise en Indochine (Nhà trường Pháp ở Đông Dương), Pascale
Bezancon (2002), Une colonisation educatrice? L’experience indochinoise (1860-1945) (Một nền giáo dục thực dân? Trải nghiệm Đông Dương 1860-1945) … [xem 44, tr.6-7].
Ngoài ra, chương trình học và hệ thống tổ chức của nền giáo dục Việt Nam thời Pháp đô hộ còn được đề cập khái quát trong một số công trình nghiên cứu có giá trị như Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương; Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử và Giáo dục Việt Nam … hay một số công trình được viết dưới dạng giáo trình như Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2000), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập II (1858-1945); Bùi Minh Hiền (2005), Lịch sử giáo dục Việt Nam; Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử Việt Nam (trước cách mạng tháng Tám 1945) … Những công trình vừa nêu hoặc là không thể hiện quan điểm riêng về nền giáo dục Pháp - Việt, hoặc là đánh giá nền giáo dục này bằng thái độ không khác nhiều so với Nguyễn Trọng Hoàng, Nguyễn Anh, Vũ Ngọc Khánh …, chẳng hạn trong Lịch sử giáo dục Việt Nam, Bùi Minh Hiền (2005) nhận xét “Dùng chính sách giáo dục ngu dân làm công cụ nô dịch tinh thần, thực dân Pháp đã thực hiện được mưu đồ kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam, ngăn chặn tinh thần tự do dân chủ và những tư tưởng tiến bộ, từ đó hòng kìm hãm bước tiến của phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đang dâng lên mạnh mẽ” [35, tr.66].
Như vậy, cho đến nay (2013), đã có một quá trình nghiên cứu nền giáo dục Việt Nam thời Pháp đô hộ (1862-1945). Có thể khái quát khuynh hướng chung của quá trình này như sau:
1. Các công trình nghiên cứu đều xem nền giáo dục Việt Nam thời Nguyễn và thời Pháp đô hộ là một bộ phận hợp thành của nền giáo dục Việt Nam.
2. Phần lớn các công trình nghiên cứu đều mô tả quá trình thực dân Pháp thiết lập hệ thống giáo dục kiểu mới ở Việt Nam cùng một số nội dung giáo dục. Phạm vi không gian nghiên cứu nền giáo dục Pháp - Việt chuyển dần từ tổng quát trên toàn lãnh thổ Việt Nam sang từng khu vực nhất định như Nam Kỳ, Bắc Kỳ.
3. Một số công trình nghiên cứu đã thể hiện sự chú trọng đến lĩnh vực cải cách giáo dục do triều Nguyễn và chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam tiến hành.
4. Có sự chuyển đổi trong khuynh hướng đánh giá về nền giáo dục Pháp - Việt: từ thái độ phê phán gay gắt (Nguyễn Trọng Hoàng, Nguyễn Anh, Vũ Ngọc Khánh …) chuyển dần sang kết luận theo hai hướng “tích cực” - “tiêu cực” và tác động văn hóa - xã hội (Trần Thị Thanh Thanh, Trần Thị Phương Hoa …).