thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay đổi.
Gia hạn nợ: Là việc ngân hàng chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc hoặc lãi hoặc cả gốc và lãi vay, vượt quá thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng.
Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm giảm bớt áp lực trả nợ gốc, lãi cho khách hàng trong điều kiện hiện tại khách hàng gặp khó khăn về tài chính, giúp khách hàng tiếp tục duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh trong thời gian tới, vượt qua khó khăn để tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng, đồng thời giảm áp lực nợ xấu cho ngân hàng ở hiện tại và tương lai.
Nói chung, xử lý nợ xấu theo giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ thường chỉ được áp dụng cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng được quyết định tiếp tục duy trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì quan hệ với đối tượng khách hàng này, khoản nợ có thể được quản lý thông qua việc giám sát chặt chẽ, nhằm đảm bảo rằng bên vay thực thi các hành động cần thiết để cải thiện tình hình của họ, và sửa chữa sai sót. Trong trường hợp khách hàng không trả được kỳ trả nợ đầu tiên đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, ngân hàng cần có hành động dứt khoát, yêu cầu khách hàng cần thực hiện những biện pháp cụ thể để cải thiện tình hình. Nếu khách hàng tiếp tục không có khả năng trả nợ đúng hạn ở kỳ trả nợ tiếp theo, ngân hàng cần chuyển khoản nợ vay của khách hàng sang nợ quá hạn, nợ xấu ngay và có những biện pháp cứng rắn như xử lý tài sản đảm bảo...để thu hồi nợ vay, giảm tổn thất cho ngân hàng.
Việc xử lý nợ xấu thông qua biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ thường chỉ hiệu quả khi khách hàng trung thực trong việc cung cấp các thông tin về tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại và dự báo đúng khả năng phục hồi của doanh nghiệp trong tương lai, đồng thời ngân hàng cũng có những phân tích, đánh giá đúng về khả năng của
doanh nghiệp để thực hiện việc gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn hợp lý, phù hợp với khả năng và nguồn trả nợ của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Xử lý tài sản bảo đảm, đòi nợ bên bảo lãnh
Đối với những khoản nợ xấu không thể áp dụng biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, khách hàng không có khả năng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, chây ỳ trong việc trả nợ… NHTM chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay, kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng theo các hình thức sau: Tự bán công khai trên thị trường; bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; bán cho Công ty mua bán nợ của Nhà nước. Trong trường hợp khoản vay không được thanh toán đầy đủ thì ngân hàng được xử lý tài sản đảm bảo theo nguyên tắc và cơ chế theo luật định.
Có thể bạn quan tâm!
- Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây - 1
- Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây - 2
- Xử Lý Nợ Xấu Trong Hoạt Động Tín Dụng Của Nhtm
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam - Chi Nhánh Sơn Tây :
- Dư Nợ Phân Theo Loại Hình Cấp Tín Dụng Giai Đoạn 2012-2014
- Bảng Thể Hiện Tỷ Lệ Dprr/tổng Dư Nợ Xấu Của Chi Nhánh Trong Giai Đoạn 2012 – 2014
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Đối với các khoản cho vay có sự bảo lãnh của bên thứ ba: Ngân hàng yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay, ngân hàng chủ động xử lý tài sản bảo lãnh tương tự như các tài sản thế chấp, cầm cố của bên vay.
Thực hiện quyền truy đòi cho vay gián tiếp: nếu đến hạn thanh toán mà người thanh toán không thực hiện nghĩa vụ thì ngân hàng truy đòi người đi vay, người bảo lãnh.
Mặc dù ngân hàng không mong muốn phải áp dụng biện pháp này do việc phát mại tài sản bảo đảm hoặc đòi nợ bên bảo lãnh thường rất phức tạp với nhiều thủ tục, tốn kém nhiều về mặt thời gian giải quyết và khả năng thu hồi đầy đủ nợ thường không cao, song ngân hàng vẫn buộc phải thực hiện để thu hồi vốn. Cho đến nay, đây là một trong số các biện pháp thu hồi vốn có hiệu quả nhất cho các ngân hàng, đặc biệt các khoản nợ do cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, khách hàng lừa đảo ngân hàng…
1.2.2.3. Bán các khoản nợ
Bán nợ là việc NHTM chuyển giao quyền chủ nợ đối với các khoản nợ hiện đang còn dư nợ hoặc đang theo dõi ngoại bảng tại ngân hàng cho tổ chức
26
hoặc cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu mua nợ để thành chủ sở hữu mới của khoản nợ và bên bán nợ sẽ nhận tiền thanh toán từ bên mua nợ. Việc chuyển giao các khoản nợ được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ (kể cả các quyền gắn liền với các bảo đảm cho khoản nợ) từ bên bán nợ sang bên mua nợ. Một khoản nợ có thể được bán từng phần hoặc toàn bộ, bán cho một bên mua nợ hoặc nhiều bên mua nợ và có thể được mua bán nhiều lần. Phương thức bán nợ có thể được thực hiện thông qua đấu giá các khoản nợ theo quy định về đấu giá tài sản hoặc thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán nợ và bên mua nợ hoặc thông qua môi giới. Giá mua bán nợ có thể do các bên thỏa thuận trực tiếp hoặc thông qua môi giới hoặc giá cao nhất trong trường hợp khoản nợ được bán theo phương thức đấu giá.
Biện pháp này được ngân hàng sử dụng nhằm tận thu hồi tối đa nợ xấu, khắc phục và xử lý được nợ tồn đọng, làm trong sạch, lành mạnh bảng cân đối kế toán, đảm bảo ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Thông thường, các khoản mua bán nợ hiện nay của các NHTM là các khoản nợ xấu, tồn đọng đã lâu, khó xử lý bằng các biện pháp thông thường trong khi các biện pháp khác (như góp vốn đầu tư kinh doanh, nhận gán nợ và chuyển đổi mục đích sử dụng đối với tài sản đảm bảo...) ngân hàng không có đủ năng lực tài chính hoặc hành lang pháp lý để thực hiện. Ngân hàng đánh giá biện pháp bán toàn bộ khoản nợ là biện pháp hiệu quả nhất, một mặt ngân hàng nhanh chóng thu được tiền về để thực hiện quay vòng vốn, mặt khác nhằm giảm nợ xấu, cơ cấu lại danh mục tín dụng, giảm chi phí quản lý và xử lý các khoản nợ xấu này.
Khi bán các khoản nợ xấu, ngân hàng thường chấp nhận bán thấp hơn mệnh giá để thu hồi vốn nhanh và tránh ảnh hưởng tới những khoản nợ còn lại. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này thì cần sự phát triển hơn nữa của thị trường mua bán nợ và Ngân hàng nhà nước cũng cần có những quy định
và hướng dẫn cụ thể hơn nữa để các NHTM có hành lang pháp lý rõ ràng trong thực hiện.
1.2.2.4. Giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả:
Biện pháp này được áp dụng nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục, tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống để khuyến khích khách hàng trả nợ cho ngân hàng.
Việc giảm, miễn lãi vay coi như sự hy sinh một phần doanh thu của ngân hàng, thường chỉ được áp dụng đối với phần lãi chưa thu. Số lãi NHTM thực hiện giảm, miễn cho khách hàng thường được tính toán trên cơ sở số nợ xấu khách hàng đã thực trả cho ngân hàng hoặc số nợ xấu khách hàng sẽ cố gắng thu xếp trả nợ cho ngân hàng, phù hợp với khả năng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và quy định hiện hành của nhà nước.
1.2.2.5. Sử dụng biện pháp pháp lý để xử lý:
Biện pháp nhờ sự hỗ trợ của pháp luật để đòi nợ được ngân hàng lựa chọn khi các biện pháp trên không khả thi. Ngân hàng có thể nhờ toà án can thiệp buộc khách hàng trả nợ, chuyển giao tài sản đảm bảo tiền vay, phát mại tài sản của khách hàng hoặc nếu khách hàng là doanh nghiệp không trả được nợ và ngân hàng với tư cách là chủ nợ chính có thể làm đơn xin toà mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo luật phá sản. Theo quy định của luật này, kể từ ngày Toà quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản, các khoản nợ chưa tới hạn được coi là tới hạn, các chủ nợ không được tính lãi đối với thời gian chưa tới hạn. Việc ngừng tính lãi (dù nợ chưa trả) là không có lợi cho ngân hàng. Cho nên, yêu cầu phá sản doanh nghiệp là biện pháp cuối cùng để ngân hàng thu hồi nợ.
Trên thực tế, việc phải sử dụng đến giải pháp này thường không đem lại hiệu quả cao cho việc đòi nợ của ngân hàng vì thủ tục rắc rối, khách hàng thường là không còn khả năng trả nợ, tài sản đảm bảo có tranh chấp về pháp lý hoặc không đủ giá trị bù đắp cho khoản vay, việc xử lý tài sản hoặc thu hồi nợ
28
thông qua cơ quan Thi hành án thường mất nhiều thời gian, tốn kém về chi phí và thời gian...
1.2.2.6. Ngân hàng thương mại dùng dự phòng rủi ro để xử lý:
Theo thông lệ quốc tế, muốn xóa nợ đọng phải có nguồn tiền nhất định. Ở Việt Nam, tiền dùng để xử lý nợ là từ quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng hoặc từ Ngân sách nhà nước.
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD.
Những trường hợp nợ xấu được xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng là những trường hợp mà khách hàng vay vốn, bên được bảo lãnh vay vốn, bên được hưởng dịch vụ thanh toán là những tổ chức bị giải thể, phá sản hoặc cá nhân bị chết, mất tích hoặc không thực hiện được các nghĩa vụ nợ do bất khả kháng và những khoản nợ thuộc nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn.
Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các ngân hàng vận dụng tối đa nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là ngân hàng sử dụng nội lực của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Việc sử dụng quá nhiều giải pháp này làm giảm thu nhập của ngân hàng trong khi vốn cho vay vẫn không thu hồi được. Vì vậy, ngân hàng nên chú trọng vào các biện pháp thu hồi nợ có tính triệt để hơn.
1.2.2.7. Sự trợ giúp của chính phủ:
Đối với những khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính sách của Chính phủ, các ngân hàng phải trông chờ vào nguồn bù đắp từ Ngân sách Nhà nước. Thực chất các khoản vay theo chính sách có thể coi như khoản vay có bảo lãnh của bên thứ ba là Chính phủ. Do vậy, khi ngân hàng không thể thu hồi được nợ từ khách hàng thuộc đối tượng này thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết cho ngân hàng. Chính phủ có thể sử dụng Ngân sách mua toàn
bộ số nợ xấu của NHTM để xử lý dần trong một số năm nhằm giải thoát cho các NHTM không bị sa lầy vào khủng hoảng nợ xấu, giúp ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh. Biện pháp này có hạn chế là thủ tục, trình tự xử lý phức tạp, kéo dài, có sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng, không thể áp dụng thường xuyên vì vốn ngân sách có hạn, việc xử lý một khối lượng lớn nợ xấu rất tốn kém làm giảm ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực khác, gây ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới xử lý nợ xấu của NHTM:
Xử lý nợ xấu của NHTM đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ, từ nhiều phía, bao gồm cả Nhà nước, ngân hàng và doanh nghiệp. Việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại chịu sự tác động của các yếu tố chủ yếu sau:
Thứ nhất, hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, kịp thời, đầy đủ, gắn liền với tình hình phát triển kinh tế, xã hội. Nợ xấu không những ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của riêng ngân hàng mà còn tác động tiêu cực tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, vì vậy Chính phủ các nước cần xây dựng một hành lang pháp lý rõ ràng, thuận lợi và đủ mạnh để giải quyết nợ xấu, phải có các quy định cụ thể về tài sản bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm và phá sản ngân hàng, đồng thời có chính sách thích hợp, có giới hạn tín dụng với từng loại doanh nghiệp.
Cơ chế pháp lý đầy đủ, rõ ràng, cụ thể sẽ giúp các ngân hàng thực hiện tốt, hiệu quả hơn công tác xử lý nợ xấu, có các biện pháp thích hợp để xử lý nợ xấu, tránh tình trạng thủ tục rườm rà kéo dài qua nhiều tầng nấc.
Thứ hai, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xử lý nợ xấu.
Một môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, thông tin minh bạch một mặt giúp các doanh nghiệp và ngân hàng kinh doanh thuận lợi, hạn chế tình trạng nợ xấu xảy ra, mặt khác, giúp ngân hàng có thể xử lý nợ xấu theo các phương án đã được chuẩn bị trước. Ngoài ra, sự phát triển đầy đủ của các thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản... tạo điều kiện cho các
30
ngân hàng thương mại được chủ động lựa chọn biện pháp xử lý nợ xấu phù hợp và đạt được hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương trong việc xử lý nợ xấu. Công tác xử lý nợ xấu của các ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào các quy định pháp lý về tín dụng, tài sản bảo đảm, trình tự thủ tục giải quyết tài sản bảo đảm... Chính vì thế, nếu công tác xử lý nợ xấu của ngân hàng nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các ban ngành, chính quyền địa phương thì công tác xử lý nợ xấu được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và toàn diện nhất. Các thủ tục giải quyết được tiến hành nhanh gọn, đơn giản và hiệu quả, nhanh chóng thu hồi vốn vay của ngân hàng để tiếp tục vòng quay vốn, tránh tình trạng ứ đọng vốn tại các dự án kém hiệu quả.
Thứ tư, năng lực tài chính của NHTM. Khả năng tài chính của ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến số tiền thực trích dự phòng rủi ro tín dụng, khả năng trích dự phòng rủi ro, đặc biệt là dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu. Ngân hàng có năng lực tài chính tốt có khả năng ứng biến tốt hơn trong trường hợp nợ xấu xảy ra, đủ khả năng sử dụng vốn của mình để bù đắp các khoản thiệt hại do nợ xấu gây ra, duy trì và phát triển hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng có khả năng tài chính kém, khi phát sinh các khoản nợ xấu sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, bất lợi trong việc lựa chọn các biện pháp xử lý nợ xấu hiệu quả nhất.
Thứ năm, trình độ chuyên môn cán bộ của cán bộ NHTM trong công tác xử lý nợ xấu. Đây cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại. Các cán bộ có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý nợ xấu sẽ giúp ngân hàng lựa chọn phương án xử lý nợ xấu hiệu quả nhất, hạn chế tối đa chi phí xử lý nợ xấu và các khoản thiệt hại do các khoản nợ xấu gây ra, giúp thu hồi được các khoản vốn cho vay nhanh chóng, kịp thời để tiếp tục sủ dụng cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH SƠN TÂY
2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây giai đoạn 2012 – 2014
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây:
Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam tiền thân là Ngân hàng kiến thiết Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 177/TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng Chính Phủ, thay thế cho “Vụ cấp phát vốn kiến thiết cơ bản” với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, quản lý vốn xây dựng cơ bản từ nguồn Ngân sách cho tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chính thức cổ phần hóa từ 01/5/2012. Hiện nay, ngân hàng đang phát triển mạnh mẽ với mạng lưới hoạt động bao gồm 118 chi nhánh cấp I, 379 phòng giao dịch, 153 quỹ tiết kiệm, 1.300 máy ATM được bố trí trên khắp các tỉnh, thành phố, đồng thời sở hữu và tham gia góp vốn, đầu tư vào nhiều công ty như công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty khai thác và quản lý tài sản, công ty bảo hiểm, ngân hàng liên doanh, công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư với Hoa Kỳ, quỹ đầu tư Nhật Bản - Hồng Kông…
Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam hoạt động với đầy đủ các chức năng của một Ngân hàng thương mại như huy động vốn dài hạn, trung hạn, ngắn hạn trong nước và nước ngoài để đầu tư phát triển; kinh doanh đa năng, tổng hợp về tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng, phi ngân hàng, làm Ngân hàng đại lý… BIDV luôn khẳng định là Ngân hàng chủ lực phục vụ đầu tư phát triển, là ngân hàng có nhiều kinh nghiệm về đầu tư các dự án trọng điểm. Hiện nay BIDV có quan hệ đại lý với hơn 800 Ngân
32