năng thu thập, xử lý, tổng hợp thông tin, từ đó có thể đánh giá, nhận định xu hướng phát triển của các lĩnh vực kinh doanh trogn nền kinh tế. Khi cán bộ tín dụng thực hiện cho vay đối với một khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu về lĩnh vực đầu tư của khách hàng, không thể đánh giá được khả năng thành công của dự án, khả năng hoàn trả gốc lãi của khách hàng thì cán bộ tín dụng đó không thể lường trước được các rủi ro tiềm ẩn của khoản tín dụng. Sự hạn chế trong chuyên môn của cán bộ ngân hàng thường dẫn đến một số thiếu sót trong quá trình thẩm định khách hàng như:
+ Không phân tích đầy đủ khả năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo rất quan trọng. Sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào ý tưởng kinh doanh và các quyết định của người lãnh đạo doanh nghiệp. Nếu cho vay doanh nghiệp mà không đánh giá đúng khả năng của người quản lý sẽ dễ dẫn đến tổn thất.
+ Phân tích báo cáo tài chính không chính xác, đánh giá không đúng hiệu quả của dự án đầu tư: Một số doanh nghiệp có tình hình kinh doanh không tốt, dự án đầu tư không thực sự hiệu quả, nhưng vì đang cần vốn kinh doanh nên các doanh nghiệp này đã vẽ ra những báo cáo tài chính đẹp, những hiệu quả kinh tế cao, khả năng thành công cao của các dự án đầu tư. Nếu không có khả năng phân tích tốt, kiến thức thẩm định dự án đầu tư và những hiểu biết nhất định về các ngành nghề kinh doanh thì các cán bộ tín dụng hoàn toàn có thể mắc sai lầm, dễ dàng đánh giá sai về khả năng tài chính của khách hàng, đánh giá sai về hiệu quả của dự án đầu tư, từ đó đưa ra các quyết định tín dụng sai, đẩy ngân hàng rơi vào tình trạng rủi ro tín dụng. Trong trường hợp khả năng tài chính của khách hàng quá kém, dự án đầu tư không hiệu quả, ngân hàng sẽ khó thu hồi vốn và lãi đầu tư, rơi vào tình trạng nợ xấu.
+ Việc xác định kỳ hạn trả nợ không chính xác: Dựa trên chu kỳ kinh doanh của khách hàng và luồng tiền từ dự án đầu tư, ngân hàng và khách hàng
sẽ thỏa thuận các kỳ hạn trả nợ của khách hàng. Nếu trong quá trình thẩm định dự án, nhân viên tín dụng xác định sai thời điểm về của các luồng tiền hoặc sau khi giải ngân, ngân hàng không giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng, để khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dẫn đến việc thực hiện dự án đầu tư không đúng theo kế hoạch ban đầu thì khách hàng khó có thể hoàn trả gốc và lãi theo đúng kỳ hạn đã cam kết, ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro tín dụng đối với các khoản vay này.
- Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một nghề có nhiều sự cám dỗ. Với các khoản vay càng nhiều rủi ro và không đảm bảo những điều kiện tín dụng đặt ra, khách hàng vay thường bỏ ra những khoản “hoa hồng” rất lớn để có thể vay được tiền. Điều này dẫn tới tình trạng một số cán bộ tín dụng cố ý làm sai quy trình tín dụng, bỏ sót một vài bước trong quy trình hay giúp khách hàng vẽ hồ sơ vay vốn cho hợp lệ để nhằm nhận được những khoản "hoa hồng" từ khách hàng. Bởi vậy, những cán bộ tín dụng mà đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo, vì lợi ích cá nhân mà hi sinh lợi ích ngân hàng cũng sẽ dễ dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Cơ chế trích lập quỹ dự phòng rủi ro không hợp lý.
Nguồn dự phòng rủi ro được trích lập hàng năm của ngân hàng là một nguồn quan trọng để bù đắp những mất mát khi không thu hồi được các khoản nợ. Quỹ này được dùng để xử lý các khoản nợ xấu theo danh mục cụ thể khi khoản nợ vay đó đáp ứng những điều kiện theo quy định của từng quốc gia. Mỗi quốc gia có đặc thù riêng nên cơ chế trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của từng quốc gia cũng có sự khác biệt về nguồn trích lập, tỷ lệ trích lập và danh mục trích lập dự phòng rủi ro.
Khi trích lập dự phòng rủi ro, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm đi, khả năng cho vay của ngân hàng cũng sẽ bị giảm tương ứng, do vậy các ngân hàng thường
18
trích lập quỹ dự phòng này ít hơn so với yêu cầu thực tế. Sự bất hợp lý trong trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro của ngân hàng là một trong các nguyên nhân làm cho nợ xấu không được xử lý dứt điểm khi xảy ra. Khối lượng nợ xấu ngày càng chồng chất khiến tình hình tài chính của ngân hàng ngày càng xấu, đe doạ hoạt động và làm suy giảm uy tín của ngân hàng. Nếu nợ xấu xảy ra quá nhiều, ngân hàng sẽ khó có thể xử lý kịp thời khi không có nguồn dự phòng này, gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán và thua lỗ lớn.
1.1.5.2. Nguyên nhân khách quan:
- Môi trường kinh tế vĩ mô không ốn định:
Hoạt động của ngân hàng và khách hàng đều chịu tác động của môi trường kinh tế - xã hội. Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp cho các hoạt động kinh doanh của khách hàng thuận lợi, do đó có thể hoàn trả các khoản gốc và lãi vay đúng kỳ hạn cho ngân hàng. Ngược lại, chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định, hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn, không như dự tính ban đầu. Mặt khác, ngân hàng cũng rất khó có thể phân tích, dự báo chính xác hoạt động kinh doanh, tài chính của khách hàng trong tương lai cũng như khó có thể lường trước được những rủi ro khách hàng phải đối mặt, do vậy mà ngân hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả năng trả nợ của khách hàng trong tương lai, khi đó chất lượng tín dụng của ngân hàng không đạt yêu cầu.
- Thông tin trên thị trường không chính xác, đầy đủ, minh bạch và rõ ràng:
Các thông tin kinh tế có vai trò rất quan trọng trong việc ra quyết định kinh doanh của cả khách hàng và ngân hàng. Việc các thông tin trên thị trường không chính xác, nhiều tin đồn thất thiêt làm lũng đoạn thị trường khiến cho việc kinh doanh của khách hàng bị ảnh hưởng không nhỏ. Việc thông tin không cân xứng, sai lệch và không kịp thời khiến cho các khách hàng và ngân hàng đánh giá không đúng tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp, hiệu quả của dự án đầu tư, đưa ra các quyết định không chính xác gây tổn thất vốn, không hoàn trả các khoản vay đúng kỳ hạn đã định.
- Khách hàng gặp khó khăn trong kinh doanh, không có khả năng trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng:
Việc kinh doanh của các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng được như dự tính ban đầu. Khi rủi ro xảy ra, doanh nghiệp bị thua lỗ, tình hình tài chính kém đi nên không có khả năng thanh toán các khoản vay cho ngân hàng đúng hạn. Đây là trường hợp mà cả ngân hàng và doanh nghiệp đều không mong muốn xảy ra. Để hạn chế rủi ro này xảy ra, ngân hàng cần xem xét kỹ tính khả thi của dự án, khả năng quản lý của khách hàng, đồng thời phải yêu cầu tài sản bảo đảm và bảo hiểm tiền vay hợp lý, phòng ngừa khi xảy ra trường hợp xấu nhất là doanh nghiệp bị phá sản, không có khả năng trả nợ.
- Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng, chây ỳ trong việc thanh toán nợ gốc và lãi vay:
Trong kinh doanh, không phải khách hàng nào cũng có thiện chỉ trả nợ gốc và lãi sòng phẳng cho ngân hàng. Có những khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng để chiếm dụng vốn kinh doanh, có những ngân hàng có khả năng trả nợ nhưng lại cố tình chây ỳ không thanh toán các khoản nợ gốc, lãi khi đến hạn. Những khách hàng này mặc dù chỉ là một số nhỏ nhưng lại có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Chính vì vậy, khi thẩm định hồ sơ tín dụng, cán bộ tín dụng cần phải tìm hiểu kỹ, đánh giá chính xác về đạo đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp, cách hành xử của doanh nghiiệp với các bạn hàng trong việc thanh toán tiền hàng và lịch sử vay vốn của khách hàng xem khách hàng có uy tín hay không, có thiện chí hợp tác với ngân hàng hay không trước khi ra quyết định tín dụng với khách hàng.
20
1.2. Xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM
1.2.1. Tổ chức bộ máy xử lý nợ xấu của NHTM
Nguyên tắc của một môi trường tín dụng lành mạnh theo thông lệ quốc tế thì bộ máy tổ chức hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng phải được tách bạch. Chức năng quản lý rủi ro tín dụng được giao cho một bộ phận độc lập với các đơn vị hoạt động kinh doanh và sẽ không tham gia vào hoạt động tạo ra rủi ro (hoạt động cho vay). Bộ phận này sẽ quản lý và giám sát rủi ro trong toàn hệ thống ngân hàng trong đó có rủi ro tín dụng. Thông thường các NHTM đều thành lập một hội đồng để xử lý rủi ro. Hội đồng này có chức năng giải quyết các vấn đề liên quan đến xử lý nợ xấu.
Việc nhận biết, quản lý và thu hồi các khoản nợ xấu là vấn đề quan trọng đối với hầu hết các ngân hàng. Các NHTM đều xây dựng hệ thống nhận biết và báo cáo nội bộ các khoản nợ xấu theo chuẩn mực của từng ngân hàng. Việc nhận biết và báo cáo các khoản nợ xấu theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt được thiết kế để bảo vệ vị thế của ngân hàng. Công tác xác định, chuyển giao và xử lý nợ xấu thường được các NHTM tổ chức theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1 : Ngăn ngừa và xử lý rủi ro tín dụng
Giám sát thường xuyên danh mục
Rà soát định kỳ/hiện tượng phát sinh*
Xuống hạng rủi ro tín dụng, khoản vay bị giáng hạng nợ xấu
Chuyển sang bộ phận xử lý nợ xấu, bộ phận xử lý nợ thực hiện việc rà soát
Lập phương án gặp gỡ khách hàng
Lập phương án khắc phục
Chuyển bộ phận xử lý nợ xấu
Nếu không
chấp thuận
Nếu chấp thuận
Nếu không thành công |
Có thể bạn quan tâm!
- Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây - 1
- Xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Sơn Tây - 2
- Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm, Đòi Nợ Bên Bảo Lãnh
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam - Chi Nhánh Sơn Tây :
- Dư Nợ Phân Theo Loại Hình Cấp Tín Dụng Giai Đoạn 2012-2014
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Nếu thành công
Chuyển bộ phận tín dụng theo dõi bình thường
*Hiện tượng phát sinh là bất cứ dấu hiệu nào mà có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng trả nợ gốc và lãi của khách hàng
Khi một khoản nợ đã được xác định là nợ xấu, ngay lập tức khoản nợ này sẽ được chuyển sang bộ phận xử lý nợ xấu. Tại thời điểm này, tài liệu về khoản nợ phải được hoàn thiện với những chứng cứ về tình trạng và nguyên
22
nhân xuống hạng của nợ xấu. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng có khoản nợ được chuyển sang bộ phận xử lý nợ xấu phải có nhiệm vụ thông báo cho cán bộ thuộc bộ phận xử lý nợ xấu những thông tin cần thiết. Việc chuyển giao này được phê duyệt thông qua Lãnh đạo phụ trách bộ phận xử lý nợ xấu.
Cán bộ thuộc bộ phận xử lý nợ xấu cần phải tiến hành ngay việc rà soát khoản nợ xấu mới phát sinh như thu thập thông tin cập nhật để đánh giá lại tình trạng của khách hàng và hoàn hiện việc rà soát nợ xấu: rà soát toàn bộ các tài liệu liên quan đến khoản vay và tài sản đảm bảo, kiểm tra và đánh giá lại tài sản làm đảm bảo (chất lượng, số lượng, giá trị...); kiểm tra lại khả năng và thiện ý của khách hàng, của người bảo lãnh, trong việc thực hiện trách nhiệm trả nợ; đánh giá lại khả năng tài chính của khách hàng theo tình hình mới; đánh giá khả năng thứ tự ưu tiên trong việc thanh toán nợ của khách hàng cho các chủ nợ, bao gồm cả các ngân hàng khác hoặc người cho vay khác, nếu cần thiết; ghi chép những chi tiết có liên quan về lịch sử của khách hàng và vị thế hiện hành của khách hàng...
Sau khi đã hoàn thành việc rà soát nợ xấu, cán bộ bộ phận xử lý nợ xấu, phải gửi ngay một bản báo cáo rà soát nợ xấu và đề xuất về chiến lược xử lý, những hành động để triển khai thực hiện. Có hai chiến lược trong xử lý nợ xấu như sau:
+ Chiến lược “duy trì” áp dụng khi ngân hàng quyết định tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng. Các khách hàng được tiếp tục duy trì có thể có cơ hội để cơ cấu lại, thương thảo lại các điều khoản tín dụng tuỳ thuộc vào khả năng trả nợ và khả năng tồn tại cũng như hướng phát triển trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Nhóm khách hàng này có thể bao gồm các khách hàng là doanh nghiệp đang tạm thời gặp khó khăn về dòng tiền nhưng có khả năng tồn tại, phát triển hoặc các doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh nhưng có khả năng tồn tại và có cơ hội để cấu trúc lại nợ hoặc thu hồi nợ. Điều kiện áp dụng: khách hàng phải thành thật, quyết tâm khôi phục sản xuất kinh doanh, có ý thức hoàn trả món nợ; khách hàng
phải thể hiện được khả năng trả nợ từ dòng tiền mặt thông thường; khả năng trả nợ từ việc bán tài sản và/hoặc từ dòng tiền mặt trong tương lai. Có nghĩa là, nếu bên vay cho thấy khả năng trả nợ gốc và nợ lãi khi đến hạn thì Ngân hàng có thể đồng ý thu xếp việc “xử lý nợ”.
+ Chiến lược “rút lui” được sử dụng đối với các khoản vay không có khả năng hoàn trả và cần phải thanh lý hoặc xoá nợ. Đối với các trường hợp này, ngân hàng cần thu nợ bắt buộc thông qua các thủ tục pháp lý, hoặc thông qua các quy trình không chính thức khác để nhằm duy trì kỷ luật tín dụng. Khi đã có kết luật rằng khoản vay không thể phục hồi được hoặc không thể tiếp tục duy trì mà không làm phương hại đến vị thế của ngân hàng, thì các hành động quyết liệt là cần thiết. Khi đó việc phát mãi tài sản thế chấp, thu hồi các khoản công nợ của khách hàng… sẽ được sử dụng để tận thu hồi vốn.
1.2.2. Các biện pháp xử lý nợ xấu của NHTM
1.2.2.1. Thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng
Đối với các khoản nợ xấu của những khách hàng mà sau khi phân tích thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu NHTM đánh giá khách hàng tạm thời gặp khó khăn, khó có khả năng trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng đã ký nhưng có khả năng tiếp tục duy trì và phát triển trong tương lai để thanh toán nợ gốc và lãi cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng.
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng là việc NHTM thực hiện điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do NHTM đánh giá khách hàng bị suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi trong hợp đồng tín dụng nhưng NHTM có đủ cơ sở để đánh giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn đã được cơ cấu lại. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ bao gồm 2 loại: Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ.
Điều chỉnh kỳ hạn nợ: Là việc ngân hàng chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi hoặc cả gốc và lãi vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa
24