số lượng lớn, hoạt động độc lập vì thế cần liên kết lại với nhau để chống lại sự cạnh tranh như những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giấy, thép, xi măng…
- Mô hình liên kết ngang: trong mô hình này, các doanh nghiệp thường hoạt động trong cùng một ngành vì thế các doanh nghiệp sẽ có quan hệ với nhau về mặt sản phẩm hay dịch vụ bổ trợ cho nhau hoặc sản phẩm của các doanh nghiệp này cùng hướng tới một nhóm khách hàng hoặc cùng một nhóm mục tiêu sử dụng. Các doanh nghiệp này liên kết lại với nhau để tạo ra lợi thế chung. Khi đó, doanh nghiệp nào có tiềm lực mạnh nhất về kinh tế, nắm giữ các vị trí chủ chốt trong dây truyền công nghệ, thị trường của tập đoàn thì sẽ trở thành công ty mẹ. Công ty mẹ sẽ điều hành, chi phối toàn bộ hoạt động của các công ty thành viên cả về công nghệ, sản phẩm và thị trường. Mô hình này rất phù hợp với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, điện lực, dầu khí…
- Mô hình liên kết hỗn hợp: là mô hình mà các doanh nghiệp hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, ít hoặc thậm chí không có mối liên hệ trực tiếp với nhau về dây truyền công nghệ, thị trường...Công ty mẹ trong mô hình này có thể không trực tiếp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh một sản phẩm cụ thể nào mà chủ yếu tập trung vào việc đầu tư, kinh doanh vốn, điều hành quản lý chung hoạt động của cả tập đoàn.
Tuy nhiên, do đây là mô hình tập đoàn khá phổ biến trên thế giới nên với mô hình này, đòi hỏi công ty mẹ phải rất mạnh về vốn, năng lực quản lý, điều hành cao…Đây là mô hình mà theo chủ trương của Chính phủ trong việc thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế hướng tới. Tuy nhiên, để hoạt động theo mô hình liên kết hỗn hợp có hiệu quả thì bản thân các tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng và chu đáo. Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực than - khoáng sản, tàu thuỷ đang hướng tới hoạt động theo mô hình này.
- Định hướng về cơ cấu tổ chức tập đoàn kinh tế
Về nguyên tắc, sẽ không có một mô hình phát triển chung cho các tập đoàn mà tuỳ từng lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề mà các tổng công ty sẽ sắp xếp, tổ chức lại các tổng công ty và các đơn vị thành viên cũng như cơ cấu ngành nghề của các đơn vị thành viên. Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo chung của Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế thì các tập đoàn sẽ hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Công ty mẹ là công ty Nhà nước, có tư cách pháp nhân, con dấu, biểu tượng; điều lệ tổ chức và hoạt động; được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng theo quy định của pháp luật, được tự chủ kinh doanh, hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, do Nhà nước đầu tư và nắm giữ 100% vốn. Trong quá trình phát triển, công ty mẹ cũng có thể chuyển đổi loại hình doanh nghiệp theo dạng cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…
Công ty mẹ có bộ máy điều hành và quản lý gồm có: Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Ban kiểm soát, giúp việc Tổng giám đốc có các Phó tổng giám đốc và kế toán trưởng, bộ máy giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Bộ máy điều hành này sẽ là bộ máy điều hành chung của cả tập đoàn, vừa là bộ máy điều hành của công ty mẹ cũng chính là bộ máy điều hành của tập đoàn.
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Phát Triển Một Số Tập Đoàn Kinh Tế Trên Thế Giới
- Tập Đoàn China Telecom Và Kinh Nghiệm Của Trung Quốc
- Giải Pháp Về Phía Nhà Nước Đối Với Việc Xây Dựng Và Phát Triển Tập Đoàn Kinh Tế Ở Việt Nam
- Xu hướng hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Công ty mẹ vừa có thể tổ chức, quản lý công ty con về vốn, đầu tư tài chính thông qua các công ty tài chính của tập đoàn, vừa có thể hoạt động sản xuất những sản phẩm chủ đạo của tập đoàn, hoặc công ty mẹ có thể nắm cổ phần trong các công ty con, định hướng về chiến lược phát triển cho các công ty con về sản phẩm, công nghệ, thị trường…đồng thời công ty mẹ sẽ hỗ trợ các công ty con về nghiên cứu, triển khai, đào tạo, thương hiệu và thị trường.
Về phía các công ty con - là các doanh nghiệp thành viên, các công ty con sẽ quan hệ chủ yếu với nhau thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc có thể là cam kết, thoả thuận. Để đảm bảo cho các công ty con hoạt động theo mục tiêu chung, lợi ích chung của cả tập đoàn thì cần có những văn bản mang tính thoả
ước, cam kết chung giữa các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn về các lĩnh vực hoạt động.
- Định hướng về phương thức chuyển đổi tập đoàn
Do các tập đoàn kinh tế ở Việt nam hiện nay được thành lập dựa trên nền tảng là các tổng công ty nhà nước có quy mô lớn về vốn, nắm giữ những ngành nghề chủ chốt trong nền kinh tế. Các tổng công ty này có số lượng thành viên lớn, rộng khắp trong cả nước, có quan hệ mật thiết với nhau về công nghệ, sản phẩm, thị trường và thương hiệu.
Để có thể hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh với mô hình chủ đạo là công ty mẹ - công ty con thì cần phải tiến hành việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp thành viên theo hướng cổ phần hoá, công ty trách nhiệm hữu hạn để từ đó làm nền tảng cho các tổng công ty có thêm điều kiện để chuyển đổi thành tập đoàn với mô hình công ty mẹ - công ty con như trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: “ Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty nhà nước. Việc xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, kể cả giá trị quyền sử dụng đất, phải theo cơ chế thị trường. Đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”.
2.2.2. Giải pháp phát triển của các tập đoàn kinh tế
Trong bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, áp lực đối với các tập đoàn sẽ rất lớn, bên cạnh việc chỉ đạo về định hướng và giải pháp thực hiện mà Nhà nước đưa ra để tạo điều kiện cho các tập đoàn hoạt động hiệu quả thì bản thân các tập đoàn cũng phải có các giải pháp cho hoạt động của
mình. Sau đây là một số giải pháp phát triển chung cho các tập đoàn kinh tế ở Việt nam:
- Về nguồn nhân lực: đào tạo đội ngũ, cán bộ công nhân viên của tập đoàn có trình độ chuyên môn, quản lý cao. Các giám đốc điều hành công ty, các giám đốc về tài chính, marketing, sản xuất, nhân lực và kế toán công ty đều phải có bằng về quản trị kinh doanh, phải qua các khoá học về đạo đức kinh tế. Có như vậy mới đảm bảo điều kiện về chuyên môn, chất lượng và một văn hoá làm việc cho đội ngũ quản lý vừa có khả năng, vừa có đạo đức nhằm kiến tạo văn minh kinh doanh mới ở tầm mức cao cho tổ chức tập đoàn kinh tế.
- Về hoạt động kinh doanh của tập đoàn: phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh được thuận lợi, trang bị các công nghệ tiên tiến, trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao khả năng của sản phẩm của tập đoàn không chỉ trên thị trường nội địa mà cả trên thị trường quốc tế. Đưa ra các chỉ tiêu cụ thể về doanh thu, chi phí, năng suất lao động…và thời gian để đạt được chỉ tiêu đó. Đặc biệt chú trọng phát triển sản phẩm chủ đạo của tập đoàn sao cho sản phẩm chủ đạo tốt về chất lượng, cạnh tranh về giá cả, xứng đáng là sản phẩm tiêu biểu cho tập đoàn, mang lại lợi nhuận, thương hiệu và uy tín cho tập đoàn. Đối với hoạt động thương mại, chú trọng xây dựng hệ thống bán lẻ, dịch vụ chăm sóc khách hàng…
- Về nguồn vốn: có thể nói nguồn vốn là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với các tập đoàn được thành lập trên cơ sở là các tổng công ty. Khi vẫn còn hoạt động trong mô hình tổng công ty, phần lớn vốn của tổng công ty là do Nhà nước “ rót” xuống nên các tổng công ty không phải lo nhiều về vấn đề vốn, mà chỉ chuyên tâm vào kinh doanh. Nhưng khi chuyển sang hoạt động theo mô hình tập đoàn thì vấn đề vốn lại là vấn đề mà các tập đoàn rất quan tâm. Để phục vụ cho hoạt động đa ngành, đa nghề của mình thì các tập đoàn
cần một nguồn vốn rất lớn để đầu tư vào kinh doanh. Để có thể huy động được nguồn vốn lớn này thì các tập đoàn có thể thông qua các cách sau:
• Công ty Tài chính: các công ty Tài chính ra đời với mục tiêu chủ yếu là thu xếp, tạo lập nguồn vốn cho sự phát triển của tập đoàn; thực hiện chức năng hoạt động của tập đoàn trên thị trường tài chính tiền tệ và tạo lập các công cụ tài chính hỗ trợ chính sách nhân viên của tập đoàn. Các công ty Tài chính này có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn cho tập đoàn. Vì đây là một kênh quan trọng trong việc đầu tư, hỗ trợ nguồn vốn nên các tập đoàn nên chú ý tới việc thành lập các công ty Tài chính, đưa các công ty Tài chính đó trở thành nơi bổ xung và tạo nguồn vốn tối ưu nhất cho tập đoàn của mình. Hiện nay, một số tập đoàn đã có các công ty Tài chính như: Tập đoàn Bưu chính - viễn thông Việt nam có công ty Tài chính Bưu điện ( PTF ), Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam có công ty Tài chính Dầu khí ( PVFC ). Và những công ty Tài chính này đang hoạt động rất hiệu quả, góp phần vốn khá lớn cho tập đoàn.
• Thị trường chứng khoán: đây cũng là một kênh thu hút vốn quan trọng cho tập đoàn nhất là khi thị trường chứng khoán Việt nam trong tương lai sẽ phát triển mạnh. Để chuẩn bị cho việc đưa tập đoàn lên sàn Giao dịch chứng khoán thì các tập đoàn nên tập trung thực hiện cổ phần hoá các công ty con và bản thân công ty mẹ cũng nên cổ phần hoá.
• Liên doanh với nước ngoài: các công ty con có thể ký kết liên doanh với các đơn vị nước ngoài theo một tỷ lệ góp vốn nhất định do Nhà nước quy định nhưng các công ty trong nước vẫn phải nắm quyền kiểm soát chính.
• Ngân hàng của tập đoàn kinh tế: do các ngân hàng đều có lợi nhuận khá cao, khả năng huy động vốn lớn, do đó rất nhiều tập đoàn hiện nay muốn thành lập ngân hàng của tập đoàn với hy vọng tiếp cận được với những nguồn tín dụng dễ dàng và rẻ hơn. Mặc dù, việc thành lập các ngân hàng của tập đoàn sẽ mang lại nguồn vốn rất lớn cho tập đoàn nhưng theo kinh nghiệm thực tế của các nước như Nhật bản, Hàn quốc, Mỹ thì các nước này cấm ngân
hàng không được tham gia hoặc tham gia rất ít vào hoạt động của tập đoàn bởi vì:
Thứ nhất, việc tập đoàn có ngân hàng là công ty con hoặc ngân hàng và tập đoàn liên kết với nhau thì khi đó sẽ tạo ra việc tập trung quyền lực quá mức và dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế.
Thứ hai, ngành ngân hàng là ngành hoàn toàn khác với các ngành kinh tế khác. Một ngân hàng muốn hoạt động tốt phải có đội ngũ nhân sự mạnh, có kiến thức tốt để ngân hàng có thể hoạt động được lành mạnh và quản lý những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải. Mặt khác, đối với các ngành khác, nếu một công ty hoạt động không hiệu quả thì phải phá sản. Việc phá sản như vậy nhiều khi cũng đem lại lợi ích nhất định cho một ngành. Nhưng riêng đối với ngân hàng thì việc phá sản là điều khó có thể chấp nhận vì nó sẽ tạo ra hiệu ứng hệ thống gây ra những tác động khó lường đối với nền kinh tế. Với những lý do trên thì các tập đoàn cần xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng trước việc muốn thành lập ngân hàng để tạo một kênh thu hút vốn cho tập
đoàn để tránh những nguy cơ rủi ro cho tập đoàn và cho nền kinh tế.
• Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư: thực tiễn thế giới cho thấy, để tăng cường sự chủ động về vốn và phát triển lĩnh vực đầu tư tài chính, ngoài những công ty con là ngân hàng, công ty Tài chính, các tập đoàn kinh tế phi ngân hàng còn có công ty quản lý quỹ đầu tư và hàng loạt các quỹ đầu tư chứng khoán. Công ty quản lý quỹ đầu tư và các quỹ đầu tư đã và đang tạo tiền đề cho sự phát triển hùng mạnh của hầu hết các tập đoàn kinh tế ( đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia - Trannationanl Corporations )
Mặc dù hiện nay, một vài tập đoàn đã có công ty Tài chính nhưng với mô hình và phương thức hoạt động như hiện nay, các công ty Tài chính không thể đẩy mạnh lĩnh vực hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán và khả năng huy động vốn của các quỹ đầu tư là rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với khả năng huy động vốn của công ty Tài chính, bởi vì: các công ty Tài chính không phải
là doanh nghiệp chuyên hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính dưới hình thức chứng khoán. Hơn nữa, thị trường chứng khoán ở Việt nam ngày càng phát triển và việc cổ phần hoá các công ty đang diễn ra rất mạnh tại các tập đoàn, do đó các tập đoàn có thể thành lập các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư. Các tập đoàn có thể giao cho các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản trị kinh doanh và quản lý tập trung vốn cổ phần của tập đoàn tại các công ty cổ phần, để đảm bảo tính chuyên nghiệp trong việc quản trị các danh mục đầu tư và nâng cao hiệu quả phần vốn đầu tư của các tập đoàn tại công ty cổ phần.
KẾT LUẬN
Như vậy, ở Việt nam hiện nay đã có 08 tập đoàn kinh tế được thành lập và đi vào hoạt động, đây là những tập đoàn kinh tế đầu tiên được thí điểm thành lập trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại các tổng công ty nhà nước và đó là những ngành quan trọng, là mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tập đoàn kinh tế là những mô hình rất quen thuộc ở những nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, với Việt nam điều này vẫn là vấn đề còn rất mới mẻ. Vì vậy, khái niệm về tập đoàn kinh tế và hoạt động của mô hình này ở nước ta vẫn chưa có sự thống nhất về mặt lí luận, nhận thức và do đó gây ra nhiều tranh cãi.
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về tập đoàn kinh tế, Khoá luận tốt nghiệp đã trình bày và giải quyết một số vấn đề sau:
Vấn đề lí luận về tập đoàn kinh tế, đã nghiên cứu và phân tích những khái niệm về tập đoàn kinh tế, quá trình hình thành và phát triển của tập đoàn trên thế giới, nguyên nhân, đặc điểm, mô hình tổ chức, phương thức thành lập và vai trò của nó đối với nền kinh tế nói chung. Tuỳ từng quốc gia, từng khu vực mà những lí luận về tập đoàn kinh tế sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm kinh tế của quốc gia và khu vực đó.
Khoá luận cũng đã nghiên cứu tổng quan về các tổng công ty nhà nước ở Việt nam, quá trình hình thành và định hướng phát triển, cũng như thực trạng hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong đó là những thành công đạt được và những hạn chế khó khắc phục, chỉ ra sự khác nhau giữa mô hình tổng công ty và mô hình công ty mẹ - công ty con, từ đó thấy được tính tất yếu phải chuyển đổi các tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình tập đoàn.