Thực Trạng Xây Dựng Văn Hóa Doanh Nghiệp Tại Việt Nam‌‌

hành vi theo mẫu hình lý tưởng cần được khuyến khích, động viên. Hệ thống khen thưởng phải được thiết kế phù hợp với mô hình xây dựng Văn hoá doanh nghiệp. Sau bước này, quá trình xây dựng Văn hóa doanh nghiệp gần như được hoàn chỉnh, đây chỉ là công tác củng cố và tiếp tục phát triển những giá trị văn hóa mới được thay đổi.

Bước 11: Tiếp tục đánh giá Văn hóa doanh nghiệp và thiết lập các chuẩn

mực mới để không ngừng học tập và thay đổi.


Ngoại trừ giá trị cốt lõi là bất biến thì những biểu hiện cụ thể của nó cần phải luôn vận động, biến đổi không ngừng để thích ứng với thị trường. Vì vậy, khi ta đã xây dựng được một nền văn hoá phù hợp thì việc quan trọng là phải liên tục đánh giá và duy trì các giá trị tốt, truyền bá những giá trị đó cho nhân viên mới; đồng thời phát hiện và chuyển đổi những giá trị không còn thích hợp. Việc đánh giá Văn hóa doanh nghiệp liên tục không chỉ giúp doanh nghiệp củng cố được tinh thần làm việc cho nhân viên, mà nó còn là công cụ hiệu quả để phát hiện ra những khuyết điểm và chỗ hổng trong hệ thống quản trị doanh nghiệp.

Văn hóa doanh nghiệp có bền vững hay không, có trở thành sức mạnh, nội lực hùng hậu tạo đà cho những bước nhảy vọt tương lai của doanh nghiệp hay không, điều đó phụ thuộc không chỉ vào bước cuối cùng này mà doanh nghiệp liên tục phải trải qua quy trình 11 bước xây dựng mới có thể củng cố và phát triển nền Văn hóa doanh nghiệp đặc trưng riêng của mình.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM‌‌

I. Khái quát về Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam


1. Sự ra đời và phát triển của Văn hóa doanh nghiệp tại Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.


Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam được hình thành như một phần quan trọng của Văn hóa Việt Nam được lưu truyền và bồi đắp từ thế hệ này đến thế hệ khác mà chúng ta cần gìn giữ và phát huy tiếp trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Văn hóa doanh nghiệp nước ta tiếp thu những nhân tố văn hóa trong kinh doanh hình thành qua nhiều năm của các nền kinh tế hàng hóa trên thế giới, đồng thời tiếp thu và phát huy những tinh hoa văn hóa trong kinh doanh của cha ông, vận dụng phù hợp với đặc điểm của xã hội ngày nay, đó là hiện đại hóa truyền thống đi đôi với sự truyền thống hóa hiện đại.

Xây dựng văn hóa doanh nghiệp tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp hoàn thiện - 5

Nếu chỉ tính trong khoảng 100 năm qua, thì trong những năm đất nước ta bị đô hộ, nhiều doanh nhân đã khởi xướng những ý tưởng rất mới trong việc phát triển công thương nghiệp, hình thành những nền móng đầu tiên của Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, đó là tinh thần dân tộc trong kinh doanh, dũng cảm cạnh tranh với tư bản Pháp, Hoa lúc đó đang làm chủ trên thị trường. Lịch sử đã ghi lại tên tuổi của những doanh nhân thời đó là tư sản dân tộc như Bạch Thái Bưởi, được coi là "vua vận tải Bắc Việt đầu thế kỷ", "bậc anh hùng trong kinh tế giới nước nhà" (lời học giả Nguyễn Văn Tố); như Nguyễn Sơn Hà, chủ hãng sơn Resistanco dùng thương hiệu của mình đánh bại nhiều hãng sơn đương thời; như Trương Văn Bền với nhãn hiệu xà phòng Cô Ba nổi tiếng cả nước… Thời đó, phong trào Duy Tân dấy lên rầm rộ từ miền Trung đến miền Bắc không chỉ khuyến khích nâng cao dân trí, cách tân đất nước, mà còn kích thích nhiều doanh nhân người Việt lập ra các hiệu buôn, đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh. Có thể khẳng định một điều chắc chắn: trên khắp đất nước ta trong những năm bị đế quốc thống trị, đã có không ít những doanh nhân ý thức được nỗi đau mất nước, luôn luôn đề cao tinh thần dân tộc trong kinh doanh – đây chính là một nội dung cơ bản của Văn hóa doanh nghiệp.

Trong những năm thực hiện thể chế kế hoạch hóa tập trung, do thị trường và các quy luật của thị trường không được công nhận, các doanh nghiệp nước ta tiến hành sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu pháp lệnh được ban hành từ trên, sản phẩm làm ra được giao nộp lên cấp trên, không tính đến nhu cầu thị trường, không hạch toán đến giá cả, cộng với tiền lương, tiền thưởng trong doanh nghiệp không gắn với kết quả sản xuất, v.v... Thể chế kế hoạch hóa tập trung cũng không bảo đảm trách nhiệm và quyền hạn của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể kinh doanh, hạn chế tính sáng tạo, tinh thần kinh doanh của người quản lý doanh nghiệp. Tình trạng đó đã làm sai lệch bản chất của kinh doanh, cũng có thể gọi đó là "sản xuất mà không kinh doanh". Tuy vậy, cũng trong thời kỳ này, có những cán bộ quản lý doanh nghiệp đã mạnh dạn tìm tòi, thử nghiệm cách làm ăn mới, tạo ra một số mô hình kinh doanh có hiệu quả.

Công cuộc đổi mới được khẳng định từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), thể chế kinh tế thị trường được công nhận đã mở ra cho các doanh nghiệp, doanh nhân nước ta những điều kiện mới có ý nghĩa quyết định để từng bước hình thành Văn hóa doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội ở nước ta, đó là Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam. Công cuộc đổi mới đã đem lại sự giải phóng các lực lượng sản xuất, quyền tự do kinh doanh của mọi công dân trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

Theo số liệu điều tra năm 2009 của Tổng cục Thống kê, tính cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, nước ta có tổng số 155.771 doanh nghiệp trong khi dân số là hơn 86 triệu người. Theo kết quả điều tra, 66% doanh nhân Việt Nam xuất thân từ gia đình cán bộ nhà nước, 16% xuất thân từ các gia đình buôn bán kinh doanh, còn lại là các giai tầng khác trong xã hội. Doanh nhân Việt Nam muốn lập nghiệp bằng con đường kinh doanh bởi họ muốn có cơ hội được phát huy tối đa năng lực cá nhân; họ có điều kiện thuận lợi để kinh doanh, kiếm sống, tăng thu nhập; họ thích thử thách và sáng tạo; hoặc theo truyền thống gia đình, họ muốn theo đuổi giá trị đạo đức và phong cách riêng. Đây cũng chính là đặc điểm cơ bản của đội ngũ doanh nhân ngày nay. Đảng và Nhà nước đã xác định kinh tế thị trường là một giai đoạn

phát triển tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp, các đối tượng tham gia thị trường, tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay, doanh nghiệp và doanh nhân chính là những chiến sĩ trên mặt trận kinh tế. Họ là lực lượng nòng cốt tạo nên sức sống và tăng trưởng cho nền kinh tế, góp phần đánh bại nghèo nàn và lạc hậu, giúp Việt Nam dần khẳng định vị trí của mình trên thương trường quốc tế.

2. Các yếu tố ảnh hưởng tới Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam


Như đã phân tích ở Chương I, Văn hóa doanh nghiệp là một bộ phận của Văn hóa kinh doanh, đồng thời cũng nằm trong Văn hóa dân tộc. Do đó Văn hóa doanh nghiệp chịu sự tác động sâu sắc của cả Văn hóa dân tộc và môi trường kinh doanh, bao gồm các thể chế văn hóa, các thể chế kinh tế, chính trị. Vì vậy khi phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, khóa luận sẽ tập trung phân tích tác động của Văn hóa dân tộc và môi trường kinh doanh tới Văn hóa doanh nghiệp.

2.1. Ảnh hưởng của Văn hóa dân tộc với sự hình thành và phát triển của Văn hóa

doanh nghiệp Việt Nam


Theo các nhà nghiên cứu, Văn hóa Việt Nam hình thành từ thiên niên kỷ IV đến thiên niên kỷ III trước Công nguyên, dưới thời nước Văn Lang của các Vua Hùng và mang đặc trưng của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Văn hóa nông nghiệp lúa nước tạo nên những nét đặc trưng trong tính cách của con người Việt Nam như lối sống trọng tình hơn trọng lý, tinh thần cộng đồng, tính cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng và hài hòa trong ứng xử với môi trường tự nhiên…; cũng như để lại những dấu ấn sâu đậm trong tri thức sản xuất và quản lý cộng đồng ở nước ta như phong cách quản lý kiểu gia đình trị, tổ chức nông thôn trội hơn tổ chức đô thị…

Bên cạnh những dấu ấn đặc trưng của văn hóa nông nghiệp, trong quá trình hình thành và phát triển, Văn hóa Việt Nam tiếp nhận những giá trị tiến bộ từ những nền văn hóa khác như văn hóa Trung Hoa, Pháp, Nga, Mỹ, Nhật… Tuy nhiên trong

quá trình giao lưu, bên cạnh việc tiếp thu những giá trị tiến bộ trong văn hóa nước ngoài, Văn hóa Việt Nam vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc riêng của mình. Một nền văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc như vậy chắc chắn sẽ có ảnh hưởng sâu sắc tới Văn hóa doanh nghiệp, một bộ phận nằm trong nền văn hóa đó.

a. Ảnh hưởng của lối sống trọng tình


Do lối sống trọng tình nên quan hệ đồng nghiệp ở Việt Nam gần gũi hơn ở các nước phương Tây. Người lao động Việt Nam đối xử với nhau có tình có nghĩa và gắn bó thủy chung với doanh nghiệp. Các mâu thuẫn trong doanh nghiệp thường được giải quyết êm thấm, thiên về dĩ hòa vi quý, nhưng không triệt để, nhiều khi giải quyết theo lối “hòa cả làng”, đúng sai không rõ ràng.

Mặt trái của vấn đề này là thói quen giải quyết công việc dựa vào các mối quan hệ cá nhân, không tách bạch giữa cuộc sống riêng tư với công việc. Điều này được phản ánh ở cơ chế tuyển dụng, đề bạt, xét duyệt thầu…, tệ “đi cửa sau” trong giải quyết công việc còn phổ biến trong hoạt động của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Theo hai nhà kinh tế Nancy K. Napier và Nguyễn Văn Thắng: “Chuyên môn và quan hệ là hai vũ khí cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp. Trong khi các tổ chức chuyên nghiệp ở các nước coi chuyên môn là yếu tố quan trọng hàng đầu thì các công ty Việt Nam thường hoạt động mạnh dựa trên các mối quan hệ, chuyên môn chỉ là yếu tố cần mà thôi”7.

b. Ảnh hưởng của ý thức về thể diện


Ảnh hưởng tích cực của ý thức về thể diện được thể hiện ở lòng tự trọng của người lao động Việt Nam. Nhiều người cống hiến hết mình cho công việc vì không muốn bị coi thường trong tập thể, và họ sẽ rời bỏ một vị trí làm việc mà ở đó họ không được tôn trọng. Cũng vì sợ mất thể diện trước đám đông, nên người Việt Nam khá linh hoạt, dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường. Mặt trái của lối sống linh hoạt là làm nảy sinh thói quen tùy tiện của người Việt Nam. Tình trạng co giãn giờ giấc (nhân viên đi muộn, về sớm; khai mạc cuộc họp muộn hơn dự tính,



7 Báo Kinh tế và phát triển – Số ra ngày 12/11/2005

giao hàng chậm hơn so với hợp đồng…), thay đổi lịch làm việc, thay đổi các điều khoản đã được ký kết trong hợp đồng… xảy ra ở nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là ở các doanh nghiệp Nhà nước. Nghiêm trọng hơn là thói tùy tiện gây ra ý thức coi thường luật pháp của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện tượng tham nhũng, lách thuế, trốn thuế, vi phạm các quy định về vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm…còn phổ biến. Thực trạng này cản trở nhiều đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế nước ta.

c. Ảnh hưởng của tâm lý muốn làm quan


Tâm lý coi trọng khoa bảng từ thời phong kiến có ảnh hưởng nặng nề tới cơ chế sử dụng lao động ở Việt Nam hiện nay. Nhiều doanh nghiệp chỉ dựa vào bằng cấp và bảng điểm để tuyển dụng lao động. Có những công việc chỉ cần kỹ năng lành nghề với trình độ học vấn trung học cơ sở, nhưng người tuyển dụng vẫn yêu cầu ứng cử viên phải có bằng đại học. Thực trạng này khiến tâm lý học lấy điểm, lấy bằng để có được việc làm ổn định lương cao phổ biến trong giới học sinh sinh viên. Chính vì thế, ở nước ta, khát vọng làm giàu và lòng tự hào được trở thành nhà kinh doanh còn chưa phổ biến. Hiện tượng thiếu nhân công lành nghề mà lại thừa cử nhân “lý thuyết suông” ở nước ta đã lên đến mức báo động trong những năm gần đây. Các doanh nghiệp phàn nàn rằng họ phải tự đào tạo hoặc đào tạo lại nguồn nhân lực do các trường đại học hoặc trường dạy nghề cung cấp. Có thể nói một trong những nguyên nhân khiến chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam còn thấp chính là do tâm lý coi trọng bằng cấp của xã hội.

d. Ảnh hưởng của lối sống trọng tĩnh


Lối sống trọng tĩnh ảnh hưởng lên cách thức làm việc và kinh doanh của cá nhân cũng như các doanh nghiệp. Người lao động Việt Nam thích những công việc có tính ổn định cao, họ không thích thay đổi chỗ làm việc, đa phần muốn làm việc tại các doanh nghiệp Nhà nước vì công việc ổn định, dù đồng lương khá khiêm tốn.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam thích làm việc theo lối cũ, thường có xu hướng chọn những bạn hàng đã quen biết mặc dù giá cả không hấp dẫn bằng bạn

hàng mới, nhưng ít gặp rủi ro. Trong điều tra của tạp chí Nghiên cứu kinh tế (số ra tháng 11/2005), mặc dù 50,25% nhà doanh nghiệp được hỏi có khát vọng làm giàu nhưng chỉ có 21,81% có ý chí làm giàu, tức là chưa tới một nửa số người muốn giàu có dám thực hiện ước mơ của mình. Lối sống trọng tĩnh, e ngại rủi ro trong kinh doanh đã hạn chế phần nào khả năng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam.

e. Ảnh hưởng của tính cộng đồng


Do có tính cộng đồng cao nên người lao động Việt Nam hay quan tâm đến nhau và sẵn sàng quyên góp sức người sức của giúp đỡ nhau khi hoạn nạn hay khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Họ thường tham gia vào các hoạt động xã hội như: đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc mẹ liệt sĩ, ủng hộ đồng bào lũ lụt, viện trợ nhân đạo, ủng hộ học sinh nghèo vượt khó…

Việc lấy cộng đồng làm chuẩn mực khiến quản lý tổ chức ở Việt Nam thường được hiểu là quản lý một nhóm người chứ không phải là quản lý các cá nhân với đặc điểm riêng của họ. Quan niệm lãnh đạo tập thể khiến việc ra quyết định ở doanh nghiệp Việt Nam đòi hỏi nhiều thời gian và chịu ảnh hưởng nhiều của tập thể. Chính sự cồng kềnh của cơ chế lãnh đạo tập thể là nhân tố ảnh hưởng đến tính phản ứng kịp thời của doanh nghiệp Việt Nam trước các biến động của thị trường.

f. Ảnh hưởng của tư tưởng gia tộc


Có thể nói, gia đình có vị trí rất lớn trong suy nghĩ của mỗi người Việt Nam. Tục ngữ Việt Nam có câu “An cư lạc nghiệp” để nhắc nhở rằng có gia đình ổn định mới có thể thành công được. Tâm lý này ảnh hưởng nhiều tới quyết định lựa chọn nghề nghiệp và cống hiến hết mình cho công việc của người Việt. Người lao động nữ thường chọn những công việc có nhiều thời gian rảnh rỗi để chăm lo cho gia đình. Kết quả điều tra của Trung tâm Pháp Việt năm 2007 cho thấy 61,01% số người được hỏi khẳng định là họ sẽ chọn công việc có nhiều thời gian rảnh rỗi dù họ phải từ bỏ một công việc lương cao nhưng không có thời gian dành cho gia đình.

g. Ảnh hưởng của tính địa phương cục bộ


Vì tinh thần tập thể của người Việt Nam ít nhiều mang tính địa phương cục bộ nên sự hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam trong cùng ngành nghề chưa cao. Doanh nghiệp đi trước không truyền đạt kinh nghiệm cho doanh nghiệp đi sau. Có trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam cùng xuất khẩu gạo sang một thị trường, đã cạnh tranh gay gắt với nhau bằng cách hạ giá xuống thật thấp để tranh giành khách. Hiện tượng này không những gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế đất nước nói chung, mà cho cả chính bản thân doanh nghiệp nói riêng.

h. Ảnh hưởng của sự thủ tiêu vai trò cá nhân


Sự thủ tiêu vai trò cá nhân trong cộng đồng khiến người lao động Việt Nam không dám đi ngược lại ý kiến tập thể, họ phải ứng xử và hành động theo các chuẩn mực và quy tắc của tập thể đó, thiếu đi tính chủ động trong công việc, luôn chờ đợi ý kiến chỉ đạo cấp trên, thậm chí sinh ra thói dựa dẫm ỷ lại vào tập thể. Tình trạng “cha chung không ai khóc”; coi tài sản của công ty là “của chùa”… gây nên sự lãng phí nguồn lực, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta.

Ngoài ra, sự thủ tiêu vai trò cá nhân trong tập thể khiến người lao động Việt Nam có xu hướng che giấu đi những cá tính riêng độc đáo của mình, họ thường rụt rè, không dám nói lên suy nghĩ, chính kiến của mình tại các cuộc họp chính thức, nhưng sau đó thì có thể lại bàn tán bình luận… Điều này khiến các cuộc họp trong nhiều doanh nghiệp thường kém hiệu quả, mất rất nhiều thời gian mà vẫn không đưa ra được giải pháp cụ thể nào.

i. Ảnh hưởng của tính dung hợp, ôn hòa


Tính chất này của Văn hóa dân tộc giúp người Việt khá linh hoạt khi tiếp thu các giá trị văn hóa từ nước ngoài và tránh những “cú sốc văn hóa”, nhất là trong các doanh nghiệp vốn nước ngoài. Ví dụ như: giới chủ Nhật Bản và nhân viên Việt Nam có thể cùng nhau chia sẻ những giá trị của đạo Khổng (trọng lễ nghi, trọng học vấn, tránh xung đột công khai trong các mối quan hệ…) Nhân viên Việt Nam cũng có thể có tính năng động, thích nghi cao và quyết đoán giống người phương Tây…

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 21/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí