Xây dựng mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng ở Việt Nam và kinh nghiệm từ một số nước Châu Âu - 8


Các NHTM Việt Nam có tổng tài sản tăng liên tục với tốc độ nhanh trong những năm gần đây, đồng thời các NHTM NN tiếp tục khẳng định vị thế chủ lực của mình trong toàn hệ thống. Cuối năm 2006, tổng tài sản của 4 NHTM NN lớn nhất đạt hơn 720 nghìn tỷ đồng (tương đương 47 tỷ USD), tăng 162% so với năm 2001


Bảng 4:Tổng tài sản 4 NHTM lớn nhất Việt Nam giai đoạn 2001-2006

Đơn vị: tỷ đồng



2001

2002

2003

2004

2005

2006

BIDV

59.949

70.802

85.851

99.660

121.403

161.600

VIETCOMBANK

76.861

81.495

97.653

121.200

136.720

169.459

AGRIBANK

80.423

97.234

136.746

161.757

201.918

252.110

INCOMBANK

58.336

67.980

80.887

93.271

116.373

137.853

Tổng

275.569

317.511

401.137

475.888

576.414

721.022

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Xây dựng mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng ở Việt Nam và kinh nghiệm từ một số nước Châu Âu - 8

(Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo thường niên của 4 ngân hàng BIDV, Vietcombank, Agribank, Incombank)



(nghìn tỷ đồng)

Biểu 1:Tổng tài sản 4 NHTM NN giai đoạn 2001-2006


800

700

600

500

400

275.569 317.511

300

200

100

0


475.888

401.137


576.414

721.022

2001 2002 2003 2004 2005 2006


Vị trí hàng đầu của các NHTM NN còn được thể hiện trên phương diện thị phần huy động và cho vay. Vào cuối năm 2006, dư nợ cho vay cũng như vốn huy động được của các NHTM NN vẫn chiếm khoảng 70% của toàn hệ thống ngân hàng, các NHTM CP và các ngân hàng nước ngoài cùng chiếm khoảng trên dưới 10% thị phần.

Về hiệu quả hoạt động kinh doanh, 4 NHTM NN vẫn dẫn đầu về hiệu quả hoạt động kinh doanh trên toàn hệ thống. Năm 2006, theo báo cáo tài chính của 4 NHTM NN, lợi nhuận trước thuế cao nhất thuộc về Vietcombank với 3.894 tỷ đồng, thứ hai thuộc về Agribank 1.710 tỷ đồng, thứ ba là BIDV với

1.206 tỷ đồng, thứ tư là Incombank. Trong khi đó, lợi nhuận trước thuế của các NHTM CP lớn và bậc trung tại thời điểm cuối năm 2006 là từ 100 đến 600 tỷ đồng, trong đó cao nhất là NHTM CP Á Châu với mức lợi nhuận là 687 tỷ đồng.

Trong năm 2005, các NHTM NN đã được Nhà nước bổ sung thêm 12.500 tỷ đồng để tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng này. Trong năm 2006, Nhà nước cho phép mở thêm các đợt phát hành trái phiếu tăng vốn cho các NHTM NN, điều đó cải thiện chỉ số an toàn vốn tiến gần tới thông lệ quốc tế (8%) như BIDV với 2 đợt phát hành trái phiếu dài hạn đạt tổng giá trị trái phiếu phát hành hơn 3.100 tỷ đồng, Agribank với

3.000 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn. 9 tháng đầu năm 2007, 2 ngân hàng là Vietcombank và MHB tiếp tục có hệ số an toàn vốn đạt trên 8%, lần lượt là 8,5% và 9,02% và có thêm Incombank với CAR là 11%. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã cho phép thực hiện cổ phần hoá tất cả 5 NHTM NN.

Những kết quả hoạt động kinh doanh khả quan này khiến cho NHTM NN trở thành đối tượng có triển vọng nhất để xây dựng thành những tập đoàn tài chính - ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam.

b. Mạng lưới hoạt động rộng khắp nước


Với thế mạnh về vốn sở hữu lớn nhất trong toàn hệ thống ngân hàng, các NHTM NN không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động trải khắp nước với rất nhiều chi nhánh và phòng giao dịch phục vụ mọi loại hình kinh doanh của nền kinh tế, mọi tầng lớp dân cư từ người nông dân đến các doanh nhân thành đạt. Mạng lưới kinh doanh rộng là điểm mạnh lớn nhất của các ngân hàng nội địa so với các chi nhánh NHNNg, ngân hàng con 100% vốn nước ngoài sắp hiện diện tại Việt Nam

Bảng 5:Mạng lưới hoạt động của 4 NHTM NN


Ngân hàng

Mạng lưới hoạt động

BIDV

103 chi nhánh cấp I, 400 điểm giao dịch.

VIETCOMBANK

26 chi nhánh cấp I, 43 chi nhánh cấp II, 47 phòng giao dịch.

INCOMBANK

2 sở giao dịch, 130 chi nhánh, hơn 700 điểm giao dịch.

AGRIBANK

2000 chi nhánh (bình quân 5-6 xã/ chi nhánh), 800 ôtô ngân

hàng lưu động hoạt động ở vùng nông thôn.

(Nguồn:các website của các ngân hàng, 2007)

Đó là lợi thế của NHTM NN trong việc xây dựng mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng. Mà chính các chi nhánh ngân hàng là đơn vị trực tiếp giao dịch, cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. (Điều này được phân tích rõ trong phần I.Chương III)

c. Mở rộng cung ứng các dịch vụ phi ngân hàng

Các NHTM NN thời gian qua đã có nhiều nỗ lực trong việc mở rộng phạm vi hoạt động sang các lĩnh vực tài chính phi ngân hàng và do đó, trở thành nhóm ngân hàng Việt Nam có nhiều công ty con nhất, hoạt động trong nhiều lĩnh vực cả tài chính và phi tài chính.

Tính đến cuối năm 2006, tổng cộng 4 NHTM NN lớn nhất đã thành lập được 22 công ty con trong lĩnh vực tài chính phi ngân hàng (5 công ty chứng khoán, 4 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, 6 công ty cho thuê tài chính, 4 công ty tài chính, 2 công ty bảo hiểm và 1 công ty tài chính hoạt động ở


HongKong). Trong khi đó, 4 NHTM CP hàng đầu là ACB, Sacombank, EAB và Southern Bank thì có tổng cộng 11 công ty con thuộc các lĩnh vực tài chính phi ngân hàng.

Việc mở rộng hoạt động sang các dịch vụ tài chính phi ngân hàng của các NHTM NN cũng như của một số NHTM CP lớn nằm trong chiến lược phát triển của ngành ngân hàng, không những cung cấp trọn gói cho khách hàng, đồng thời góp phần tăng thu nhập của toàn ngân hàng.

Chiến lược bành trướng sự hiện diện của ngân hàng ở các lĩnh vực tài chính khác là một trong những tiền đề, phương án nhằm hình thành những tập đoàn tài chính - ngân hàng trong tương lai, mà đã được một số ngân hàng hàng đầu tính tới như BIDV, Vietcombank,…

1.2. NHTM CP

Trong vài năm trở lại đây, các NHTM CP đã có những thành tích tăng trưởng vượt bậc và được đánh giá là những chủ thể năng động nhất trên thị trường tài chính - ngân hàng Việt Nam. Sự tăng trưởng nóng này thúc đẩy quá trình xây dựng mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng thông qua hình thức sáp nhập và mua lại, tự thiết lập các công ty con, được dự báo là sẽ bùng phát trong tương lai gần.

a. Vốn điều lệ không ngừng tăng trưởng

Cuộc chạy đua tăng vốn điều lệ được khởi động vào cuối năm 2003 và đến nửa đầu năm 2004 bắt đầu bùng phát với việc hầu hết các NHTM CP đều tuyên bố tăng vốn điều lệ. Từ 2004 đến 2006, các NHTM CP đã có tốc độ tăng vốn điều lệ rất nhanh, trong 5 NHTM CP được khảo sát (ACB, Sacombank, EAB, VIB, Southern Bank). Southern Bank có tốc độ tăng cao nhất với 303% và thấp nhất là ACB với 130%. Thời điểm cuối năm 2006, Sacombank đứng đầu khối NHTM CP về vốn điều lệ với 2.089 tỷ đồng.

Biểu 2:Vốn điều lệ các NHTM CP giai đoạn 2004-2006


2004 2005 2006

2500

2000

2089

tỷ đồng 1500

1000

500

0

950

480

1100 1250

1290

1000

740

320

580

250

510

1000

510

350


ACB

SACOMBANKSOUTHERN

BANK

VIB

EAB


Tuy nhiên, Ngân hàng An Bình là ngân hàng có tốc độ tăng vốn điều lệ nhanh nhất trong năm 2006, khi mà vào đầu năm chỉ có 165 tỷ đồng đã tăng lên 1.132 tỷ đồng vào cuối năm 2006, đến tháng 9/2007, vốn điều lệ đã đạt

2.300 tỷ đồng. Vừa qua, sau đợt phát hành cổ phiếu, từ ngày 25/5/2007, vốn điều lệ của ACB đã tăng lên đạt mức 2.530 tỷ đồng, vượt qua Sacombank và trở thành NHTM CP lớn nhất.

Vốn điều lệ tăng lên, nhờ đó tính an toàn trong hoạt động của các ngân hàng cũng được nâng cao, thể hiện qua hệ số an toàn vốn ngày được tăng lên. Hầu như tất cả các NHTM CP đều đạt hoặc cao hơn tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế (8%).

Việc tăng vốn còn là điều kiện tiên quyết để một ngân hàng mở rộng mạng lưới (thỏa mãn được yêu cầu về vốn, tăng thêm 20 tỷ đồng để mở một chi nhánh, theo Quyết định 888 của NHNN năm 2006). Hơn nữa, cuộc đua tăng vốn điều lệ tại các NHTM CP càng “nóng” lên sau khi Chính phủ ra Nghị định 141/2006/NĐ-CP quy định đến năm 2008, mức vốn điều lệ tối thiểu đối với các NHTM CP là 1.000 tỷ đồng và đến năm 2010 sẽ là 3.000 tỷ đồng.

Vốn điều lệ không ngừng tăng lên thông qua phát hành cổ phiếu là một minh chứng cho thấy uy tín của ngân hàng đã tăng cao khi ngân hàng hoạt động ngày càng lành mạnh và có hiệu quả.


b. Hiệu quả hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng ngày càng cao


Các NHTM CP đã đạt được kết quả kinh doanh hết sức khả quan, đặc biệt là 9 tháng đầu năm 2007, các ngân hàng có tốc độ bứt phá nhanh và mạnh về lợi nhuận, trong khi vẫn duy trì được mức nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ. Ngân hàng Á Châu vẫn dẫn đầu khối NHTM CP với lợi nhuận trước thuế 9 tháng 2007 là 1.470 tỷ đồng (gấp hơn 2,5 lần lợi nhuận của cả năm 2006, 687 tỷ đồng); tiếp theo là ngân hàng Sacombank với 1.006 tỷ đồng (năm 2006 là 447 tỷ đồng); Techcombank 492 tỷ đồng; Eximbank 473 tỷ đồng (gấp gần 1,5 lần so với lợi nhuận trước thuế của cả năm ngoái). Eximbank là một trường hợp đáng ghi nhận, khi từ một ngân hàng bị đưa vào tầm kiểm soát đặc biệt của NHNN cách đây 6 năm đã vươn lên đứng vào top các NHTM CP hàng đầu Việt Nam. Các NHTM CP bậc trung cũng có bước nhảy tương đối ấn tượng về lợi nhuận như VIB Bank với 310 tỷ đồng, SBC 254 tỷ đồng. Nhờ

đó, nhiều NHTM CP đã đạt hệ số ROE từ 17%-18%, trong đó có một số ngân hàng đạt trên 30%.1

Mặt khác, các NHTM CP đã đạt được thành tích nổi bật trong việc đảm bảo an toàn và lành mạnh hơn chất lượng tín dụng. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM CP từ cao nhất trong toàn hệ thống vào năm 2004 với 5,42% đã giảm mạnh trong năm 2005 xuống còn 2,15% và tiếp tục giảm vào cuối năm 2006 còn 1,96%, đặc biệt NHTM CP Eximbank đạt được tiến bộ vượt bậc khi tỷ lệ nợ xấu chỉ còn 0,85%. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu của khối NHTM NN và các ngân hàng liên doanh cũng như chi nhánh ngân hàng nước ngoài hầu như đều tăng trong giai đoạn vừa qua.


Bảng 6: Tình trạng nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam

giai đoạn 2004 - 2006

Đơn vị: %


1 Số liệu được tổng hợp từ BCTC của các Ngân hàng



Khối

2004

2005

2006

Toàn hệ thống

4,03

3,18

3,85

NHTM CP

5,42

2,15

1,96

NHTM NN

4,17

3,79

4,84

NH liên doanh

0,1

0,54

0,92

Chi nhánh NHNNg

0,16

0,12

0,4

(Nguồn: chứng khoán hóa các khoản cho vay, giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ở các NHTM - Nguyễn Trung Kiên, thị trường tài chính tiền tệ số 7 ngày 1/4/2007)


Biểu 3:Tình trạng nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam

giai đoạn 2004-2006


6

5 4.03

4

5.42


4.17


3.18


3.79


3.85


4.84

%

3

2

0.16

2.15 1.96


0.92

1

0.1

0

0.54

0.12

0.4

2004 2005 2006


Toàn hệ thống NHTM CP NHTM NN NH liên doanh Chi nhánh NHNNg


c. Đa dạng hoá kênh phân phối và dịch vụ ngân hàng, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại.

Tiềm lực tài chính ngày càng mạnh đã giúp cho các NHTM CP không ngừng đầu tư, mở rộng kênh phân phối sản phẩm đến khách hàng; đồng thời phát triển sản phẩm công nghệ hiện đại để gia tăng tiện ích cho người sử dụng.


Về các kênh phân phối truyền thống, các ngân hàng không ngừng tăng quy mô các chi nhánh và phòng giao dịch. Tốc độ phát triển mạng lưới của các NHTM CP khá cao, với mức bình quân trên 35% trong 3 năm 2003-2006. Đến năm 2006, một số NHTM CP quy mô lớn đều có từ 60 - 100 chi nhánh và phòng giao dịch.

Hệ thống kênh phân phối ở các NHTM nước ta nói chung và các NHTM CP nói riêng đang được chuyển dần từ chủ yếu bằng kênh truyền thống là mạng lưới chi nhánh và điểm giao dịch ở hầu hết các tỉnh, thành, quận, huyện trên cả nước sang việc mở rộng và đầu tư nhiều hơn các kênh phân phối mới, như máy ATM, máy POS, giao dịch tận nhà và các kênh phân phối điện tử viễn thông như internet banking, mobile banking,Các kênh phân phối từ đó tạo ra sản phẩm dịch vụ mới và đều dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại.

Đến cuối tháng 6/2006, cả nước có trên 20 NHTM phát hành thẻ nội địa, 8 NHTM phát hành thẻ quốc tế; số lượng thẻ xấp xỉ 6,2 triệu thẻ; số lượng máy ATM trong toàn hệ thống là 2.200 máy, tổng số điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) đã lên tới 21.875 điểm tại các nhà hàng, siêu thị.. Ngân hàng Đông Á dẫn đầu khối NHTM CP và Vietcombank dẫn đầu toàn ngành ngân hàng về dịch vụ thẻ. Dự kiến cuối năm 2008 sẽ hoàn tất việc kết nối toàn bộ hệ thống ATM của các liên minh thẻ trên toàn quốc. (Nguồn: Thời báo kinh tế số 123, ngày 13/10/2007, tr.6)

Mặt khác, các ngân hàng đã có những nỗ lực bước đầu trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng thu phí bên cạnh các sản phẩm cho vay truyền thống thu lãi. Các dịch vụ thu phí đang được đẩy mạnh cung cấp là: thanh toán, bảo lãnh, ngân quỹ, đại lý,Theo báo cáo của một số NHTM, thu nhập từ phí dịch vụ đã tăng lên với tốc độ khá, nhanh nhất là ACB, với mức thu trong năm 2006 là 148 tỷ đồng, tăng hơn 52,5% so với năm 2005, nhưng thu

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 05/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí