Sau khi người dân đào bát hương lên, ông thấy dưới bát hương có tấm bia đá phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ sai người lau sạch bia thì đọc được mấy câu:
“Minh Mạng thập tứ Thằng Trứ phá đền Phá đền phải làm đền
Nào ai động đến doanh điền nhà bay.”
Ông liền thảo sứ về triều, xin bãi bỏ lệnh phá đền, đồng thời sửa sang lại ngôi đền của vị trạng nguyên nhà Mạc.
e) Đền thờ thân phụ - thân mẫu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Phía sau đền thờ chính là đền thờ song thân phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm được khởi công xây dựng vào năm 2010 nhân dịp kỷ niệm 520 năm ngày sinh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và khánh thành vào năm 2011, được đầu tư với kinh phí khoảng 45 tỷ đồng. Toàn bộ đền đều được làm bằng gỗ lim. Đền thờ có bố cục mặt
bằng với các đơn nguyên kiến trúc như: tòa đền chính hình chữ công (工), hai tòa giải
vũ hình chữ nhất (一) và Nam / Bắc môn
Có thể bạn quan tâm!
- Xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các trạng nguyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng - 5
- Điều Kiện Để Phát Triển Loại Hình Du Lịch Học Tập Ở Hải Phòng
- Các Hạng Mục Công Trình Và Kiến Trúc
- Khảo Sát Các Điều Kiện Về Cơ Sở Vật Chất Và Cơ Sở Hạ Tầng Để Xây Dựng Chương Trình Du Lịch Tại Các Di Tích Đền Trạng
- Đề Xuất Một Số Giải Pháp Nhằm Khai Thác Hiệu Quả Các Đền Trạng Nguyên
- Xây dựng chương trình du lịch học tập tại các di tích gắn với các trạng nguyên trên địa bàn thành phố Hải Phòng - 11
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Nam, Bắc môn:
Cổng được dựng theo kiểu nhất môn, với hệ thống 4 mái lợp ngói vẩy, tường bờ nóc đắp xi măng đặc, chính giữa gắn mặt trời, hai đầu kìm đắp hoa văn cách điệu chữ triện, bốn đầu đao cong tạo dải vân mây,
Nhà Tả vu, Hữu vu :
Hai dãy nhà Tả/Hữu vu có bố cục mặt bằng hình chữ nhất và được phân bố theo chiều Đông-Tây. Mỗi đơn nguyên được dựng trên hệ thống khung chịu lực của 8 bộ vì gỗ chắc khỏe. Tám bộ vì là ranh giới phân chia không gian tòa nhà thành 7 gian, với thiết kế kiểu vì 4 hàng chắn cột. Vì nóc theo kiểu “ chồng rường giá chiêng”, vì nách “ chồng rường trụ trốn”. Hoa văn trang trí trên bộ vì có trụ đấu hoa sen, má các con rường, bẩy hiên chạm bong kênh hoa văn lá lật.
Tòa đền chính:
Tòa công trình có tòa tiền tế 3 gian 2 chái, tòa thiêu hương 1 gian và tòa hậu cung 3 gian. Các toàn nhà được liên kết chặt chẽ với nhau bằng hệ thống tường bao
để tạo thành chính thể thống nhất có bố cục mặt bằng hình chữ công (工)
Tòa tiền tế:
Hệ thống khung chịu lực có 4 bộ vì chính. Vì được làm theo thể thức 4 hàng chắn cột. Toàn bộ tòa nhà được dựng trên 26 cột gỗ. Tính từ trái qua phải theo hướng di tích, ta có bộ vì số 1,2,3,4.
Khoảng cách hai bộ vì 2 và vì 3 tạo không gian trung tâm tòa tiền tế. Vì nóc kiểu “chồng rường giá chiêng”, vì nách “ bán chồng rường giá chiêng”. Hoa văn trang trí đơn giản với hoa sen trụ đấu, má các con rường và má câu đầu được chạm bong kênh đề tài lá lật, bẩy hiên trang trí hoa dây lá lật
Tòa ống muống:
Tòa ống muống được tạo bởi 2 bộ vì vững chắc. Tòa nhà là một gạch nối linh thiêng, quan trọng để đưa con người đến gần hơn với thần linh, đến chốn linh thiêng tôn thờ các ngài. Vì nóc của 2 bộ vì có kết cấu dạng “ chồng rường giá chiêng”, vì nách “ chồng rường trụ trốn”, hoa văn trang trí trên bộ vì tương trụ hoa văn các hệ vì tòa tiền tế.
Tòa hậu cung:
Tòa hậu cung có 4 bộ vì tạo 3 gian thờ rộng rãi. Hệ thống vì và các thức hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc của tòa nhà tương đối giống với hai tòa nhà phía trên nó. Duy chỉ có đôi chút khác biệt ở hai bộ vì nách gian trung tâm là làm theo kiểu vì “ván mê”, vì được để mộc không trang trí hoa văn, má xà nách có điểm hoa văn lá lật với kỹ thuật chạm bong kênh.
f) Nhà Am Bạch Vân
Am Bạch Vân là công trình kiến trúc với 3 gian nhà lợp cói có nguồn gốc xây dựng từ lâu đời và được dựng lên sau khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê ( Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn (thời Tự Đức) và
Lịch triều hiến chương loạn chí của Phan Huy Chú ). Sử sách còn ghi lại, sau khi thi đỗ trạng nguyên làm quan trong triều được 8 năm, trước cảnh quyền thần tranh giành địa vị, bổng lộc, dối vua, hại dân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ lên vua vạch tội và xin xử trảm 18 tên lộng thần biến chất mưu phản song không được nhà vua chấp thuận. Vì thế ông bèn cáo quan về ở ẩn nơi quê nhà; lập Am Bạch Vân dạy học, làm thơ, nghiên cứu kinh sử; lấy biệt hiệu là Bạch Vân cư sĩ.
Bạch Vân Am được làm theo kiểu tứ trụ, trốn cột cái, thượng đấu hạ oai theo dạng bái đường Văn Miếu. Nguyên liệu bằng gỗ xoan, gỗ mít. Mái lợp tranh lá dừa, phủ liếp nứa chống gió lốc. Ngoài hai chái đông tây, am có 3 gian giữa khá rộng dùng làm phòng dạy học. Phía trong gian giữa, kê một sập gụ chân quỳ, mùa hè để trần, mùa đông trải chiếu cạp điều, cải chữ “thọ”.
Am Bạch Vân không chỉ là nhà ở mà còn là trường dạy học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nơi ông đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước. Hơn thế nữa, Am Bạch Vân là nơi tạo nguồn cảm hứng của 1000 bài thơ Nôm, để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ văn có giá trị như Bạch Vân Am thi tập, Bạch Vân Quốc ngữ thi tập, Trình Quốc Công Sấm ký…
Cũng chính từ mái Am Bạch Vân này, ông đã từng tiếp kiến các sứ giả của các thế lực phong kiến lúc bấy giờ như: Mạc, Trịnh, Nguyễn đến tham vấn về việc quân quốc, trọng sự.
g) Chùa Song Mai
Chùa Song mai Cách Bạch Vân Am khoảng hơn trăm bước chân, Trạng Trình dựng cho bà vợ thứ Nguyễn Thị Minh Nguyệt ngôi nhà để bà tu tại gia. Bà không con, hướng về cõi Phật lúc tuổi già. Trạng trồng cho bà cây hoa mai lên gọi là chùa Song Mai. Sau nhiều lần trùng tu, gần đây lại được Việt kiều công đức nên đã trở lên khang trang.
Truyện xưa kể lại, thưở còn trẻ Nguyễn Văn Đạt (Nguyễn Bỉnh Khiêm) thường cùng bạn bè dạo chơi những nơi dnah lam thắng cảnh. Một lần đến Đồ Sơn. Ngắm cảnh trời đất núi non lồng lộng, Văn Đạt liền cao hứng đọc:
“Trai Đồ Sơn đứng núi Đồ Sơn Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”
Câu này có nghĩa
“Núi sinh ra anh hùng hào kiệt”.
Các bạn cùng đi không ai đối được vế ra đối nửa chữ nôm, nửa chữ hán. Trong lúc mọi người đang mải nghĩ thì bên triền núi xuất hiện một người con gái. Người con gái đẹp khiến chàng trai nào cũng ngơ ngẩn và lặng đi. Giữa lúc đó, cô gái đưa cho tiểu đồng một tờ giấy nhỏ. Chú bé đến chào mọi người và trao tờ giấy. Đọc mới biết hoá ra là vế đối trả lời Văn Đạt. Vế đối như sau:
“Gái minh nguyệt ngồi trong cung nguyệt Nguyệt nguyệt bằng quân tử trượng phu” câu này có nghĩa
“ Trăng làm bạn với quân tử trượng phu.”
Vế đối hay và có tình ý nên mấy người bạn xúm vào ghép nàng cho Văn Đạt. Sau hỏi mới hay, người con gái đó tên là Hương (sau đổi thành Minh Nguyệt), họ Nguyễn.
Cảm kích trước tài năng, sắc đẹp và tấm lòng, sau Văn Đạt tìm đến nhà và cưới người đẹp làm vợ thứ. Lấy được nhau hai người có bạn tâm đắc nhưng sau đó vì không có con, bà buồn rầu nên xin với Nguyễn Bỉnh Khiêm cho tu tại gia. Ông ra sức khuyên giải. Bà nhìn về phía quê cha, nói: “ Hải bất ba đào khan hải tĩnh” - biển không có sóng cạn thành biển lặng. ông đáp lại: Hồ vô minh nguyệt bán hồ mê - Hồ không có ánh trăng thành hồ mê muội. Lòng ông vẫn quyến luyến nhưng bà nhất quyết dứt bỏ cõi phàm, ông đành dựng cho bà ngôi chùa, bà không con nên ông trồng cho bà 2 cây mai cho bà chăm sóc và làm bạn qua ngày. Từ đó chùa gọi là chùa Song Mai.
Chùa Song Mai hiện có hai câu đối:
“Tốn bút song phong trung phúc quả Hàn giang nhất đời dưỡng tâm hoa.”
Vế đầu bà làm với ý nhờ hàng núi bút mà ông ở đất này hưởng lộc, ông làm vế sau: bà ở bên dòng sông Hàn nuôi tấm lòng đẹp như hoa.
h) Quần thể Vườn tượng
Khu di tích có tổng cổng 3 vườn tượng với những bức tượng bằng đá granit, có kích thước như người thật, tạo nên một khung cảnh gần gũi và sống động.
Vượn tượng thứ nhất nằm ở bên cạnh đền thờ chính tái hiện lại cảnh nhân dân trong làng vui mừng ra đón Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi từ quan trở về quê hương.
Vườn tượng thứ hai là ở ngôi nhà mô phỏng Am Bạch Vân xưa. Khoảnh sân nhỏ cũng là lát cắt trong quãng đời của Bạch Vân cư sĩ từ sau khi cáo quan về ở ẩn được tái hiện qua những bức tượng rất sinh động, hình ảnh những đứa trẻ cùng cha mẹ đến xin cụ dạy chữ, những vị quan đại diện cho các triều đại đến vấn an cụ về việc quân quốc sự…
Vườn tượng thứ ba nằm phía sau nhà Am Bạch Vân tái hiện lại cảnh xét xử việc cha con ông Khả. Nghe dân làng kể, sau khi Trạng mất, ở làng Cổ Am có lập đền thờ. Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt ếch ở bên ngôi mộ cụ vô ý làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng thấy thế bắt về đình phạt ba quan tiền vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:
"Cha con thằng Khả Đánh ngã bia tao Làng xóm xôn xao Bắt đền tam quán".
Cha con ông Khả chạy đi kiếm mãi cũng chỉ có một quan tám nhưng dân làng không chịu, cha con ông bèn cãi liều: “Cha con tôi lỡ lầm nên cụ Trạng bắt phạt có
quan tám, "tam quán" nói lái lại thành quan tám chứ không phải ba quan. Dân làng không tin hãy cứ xin âm dương trong đền cụ mà xem.”
Dân làng nghe cũng có lý mới đi lễ đền cụ xin âm dương thì quả thực như vậy. Cứ xin hoài ba quan mà hai đồng tiền vẫn cứ khi thì xấp cả, khi thì ngửa cả. Chỉ tới khi khấn là quan tám mới được đồng xấp, đồng ngửa nên mọi người lại càng tin và phục tài tiên đoán của cụ Trạng.
Dạo bước trong khu di tích thả hồn vào không gian làng quê yên bình với rặng tre xanh. Lạc vào khu vườn tượng với những bức tượng kích thước và hình dáng như thật diễn tả cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rất nhiều du khách đã chọn nơi này để ghi lại những bức ảnh kỉ niệm. Khu vườn tượng không chỉ có giá trị thẩm mĩ mà còn có giá trị lịch sử quý giá.
i) Khu vực Phù điêu, Tượng đài, Quảng trường
Hai bức phù điêu, mỗi bức có cao khoảng hơn 5m, dài hơn 20m và được làm khá hoàn chỉnh cả về nội dung, bố cục mỹ thuật, nét vẽ sinh động như một thước phim giúp người xem có thể dễ dàng tái hiện lại. Một bức diễn tả lại cuộc đời sự nghiệp của Trạng Trình từ lúc còn bé đến cuối đời; bức kia diễn tả một giai đoạn lịch sử của địa phương từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến nay.
Giữa khu di tích nổi bật với tượng đài Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm uy nghiêm tạo thế “tọa sơn vọng thủy”: tượng đài hướng ra hồ bán nguyệt rộng khoảng 1000m2, hàng liễu xanh ngăn ngắt rủ bên bờ, tựa vào chín ngọn núi sấm sừng sững. Trèo lên đỉnh những ngọn núi này, phóng tầm mắt ra xa ngắm nhìn khung cảnh làng mạc mờ mờ trong khói lam chiều, cánh đồng thẳng cánh cò bay, chú bé mục đồng vắt vẻo lưng trâu, rồi thu vào tầm mắt toàn bộ khung cảnh khu di tích.
Tượng đài Trạng trình cao 5,7m, nặng 8,5 tấn bằng chất liệu đá Granit đúc. Tượng trong tư thế ngồi, tay cầm sách trầm tư suy nghĩ về nhân tình thế thái. Y phục của tượng là y phục nhà nho sống giản dị gần dân. Lư hương bên tượng đài lúc nào cũng nghi ngút khói hương.
Theo KTS. Phạm Vũ Hội, người thiết kế khu di tích cho biết thì đây quy hoạch theo phong thủy, trung tâm là tượng Trạng Trình, trước là hồ bán nguyệt, bồn hoa tượng trưng cho Chu Tước. Hai bên là Bạch Hổ và Thanh Long.
Trước tượng đài là quảng trường lớn - địa điểm tổ chức lễ hội hàng năm của khu di tích, cũng là khu vực để tổ chức các sự kiện của thành phố Hải Phòng, chủ yếu liên quan đến lĩnh vực giáo dục, văn hóa, lịch sử. Đặc biệt, cứ đến mỗi kì thi hoặc vào đầu năm học mới, các phụ huynh và học sinh thường đến đây xin chữ cầu may mắn.
j) Nhà trưng bày
Nhà trưng bày các tư liệu lịch sử liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm ở phía trước cổng tam quan. Đó là một kiến trúc có mái hình bát giác. Trong số các hiện vật trưng bày ở đây, có chiếc tủ kê ở chính giữa. Trên đó là một số tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Sấm ký bí truyền gồm các lời tiên đoán của ông về tương lai; Bạch Vân am thi tập, Trình Quốc công Bạch Vân am thi tập là tập hợp một số những bài thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông về nhân ảnh thế thái hay cảnh đẹp thiên nhiên.
Đáng chú ý, có một hiện vật gốc là một phiến đá phẳng còn lại của một cây cầu đá, phiến đá xanh có thước 1,2m x 0,4m x 0,6m , trên đó có 3 chữ Hán: "Trường Xuân Kiều” (tức cầu Trường Xuân). Phiến đá xanh đã nhăn một mặt bởi dấu chân người đi qua. Dòng chú thích bên cạnh ghi rõ đây là cây cầu do Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhân dân trong vùng dựng vào năm 1543 dùng để bắc qua con mương nhỏ vào chùa Mét. Tương truyền: cây cầu của một bà Hậu, con dâu họ trần buôn bán đồ lụa, đũa, vãi, tơ, do làm ăn phát đạt nên xin tiến cúng làng một cây cầu bắc qua một con ngọi chạy từ Đại Đình ra sông Hoá chia hai làng Đông Am và Cổ Am. Phía Bắc cầu là chùa Mét, Phía Nam là đầm Đuổi và sông Hoá. Phía Đông là Cổ Am qua Đông Am sang Liễu Điện. Cây cầu có một nhịp, 4 trụ đá ở bốn góc. Trên bốn trụ có hai thanh ngang bằng đá lát ở trên.
k) Tháp bút Kình Thiên
Tổng diện tích của tháp là 845.5m2 . Tương truyền, tháp được học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng lên cách đây hơn 400 năm, tháp được xây dựng để thể hiện niềm tôn kính, ca ngợi tài năng Danh nhân như trụ cột chống trời ( Kình Thiên ). Qua năm tháng, gò đất bị bào mòn, tháp bút Kình Thiên bị đổ nát đến thời Nguyễn thì được xây lại. Ngôi tháp được xây dựng kiểu hai tầng tám mái, lòng tháp để rỗng và trong có đặt bát nhang, cửa tháp lắp các câu vế đối. Có thể nói, tháp bút Kình Thiên vẫn tồn tại đến ngày nay như giá trị, ý nghĩa vốn có của nó.
l) Quán Trung Tân
Quán Trung Tân có tổng diện tích là 905,5m2 . Cũng như Am Bạch Vân, quán Trung Tân được dựng lên sau khi Nguyễn Bỉnh Khiêm rời chốn quan trường về quê để an nhàn dạy học. Quán Trung Tân nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn thường ngồi câu cá và nghĩ suy thế sự.Trung là ở giữa, Tân là bến. Bến Giữa ý muốn nói không tả, không hữu, hành sự phải cho đúng sẽ thành công
Năm 1752 , Vũ Phương Đề có tới thăm quán Trung Tân thì: “ còn tấm bia cũ nhưng nét chữ đã quá mờ không sao đọc nổi”. Đến năm 1777, La sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, danh sĩ thời Tây Sơn đến thăm làng Trung Am đã có bài ngũ ngôn ghi rõ: “ Am, bia đều mất hết/ Man mác dòng Tuyết giang”. Như vậy mốc thời gian ssau năm 1752 đến trước năm 1777 thì quán Trung Tân đã không còn.
Năm 2001, quán Trung Tân được dựng lại bên bến đò Hàn với 3 gian, giữa quán đặt tấm bia do Hội sử học Hải Phòng làm với sự tài trợ của Tổng cục Du lịch Việt Nam. Bia đá cao 1,5m, nặng 4 tấn được trùng khắc hoàn thành ngày 21 - 12 – 2000. Nội dung bia giải thích chí trung là chí thiện, toát lên quan niệm sống chủ đạo của Trạng trình là "Thiện". Quán được làm với 3gian nhà, hệ thống khung chịu lực chốn cột cái và được đặt trên hệ thống 8 cột quân bằng đá rất vững chắc.
2.1.3.2. Tình hình khai thác khách
Cơ cấu khách du lịch của đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đa dạng: học sinh, sinh viên, công chức, khách hành hương,những nhà nghiên cứu, khách quốc tế...