Các Kết Quả Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Tại Vinalines .

Vinalines luôn xác định việc tham gia vào các hiệp hội và tổ chức chuyên ngành của quốc gia và quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao vị thế, uy tín và khả năng hội nhập của Vinalines nói riêng và Ngành hàng hải Việt Nam nói chung trên diễn dàn khu vực và quốc tế. Chính vì vậy mà tháng 5 năm 1997, Vinalines đã chủ trì việc thành lập Hiệp hội chủ tàu Việt Nam (VSA) với số thành viên ban đầu là 32 công ty vận tải biển của Việt Nam. Vinalines cũng tích cực tham gia vào hoạt động của Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA), Hiệp hội Giao nhận Kho vận Việt Nam (VIFFAS). Là thành viên chủ đạo và tích cực của các Hiệp hội, Vinalines đã cùng các Hiệp hội đóng góp tiếng nói của ngành Hàng hải Việt Nam trên các diễn đàn khu vực và quốc tế như Hiệp hội chủ tàu ASEAN (FASA), Diễn đàn chủ tàu Châu Á (ASF), Hiệp hội Cảng biển Châu Á…

Vinalines cũng có quan hệ và tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế khác trong việc bồi dưỡng và đào tạo cán bộ nhân viên cho toàn bộ Tổng công ty như NORAD của Na Uy, STC/IMTA, NUFFIC của Hà Lan, PSA của Singapore, AASTMT của Ai Cập… Hàng năm, Vinalines đều liên tục cử nhiều cán bộ đi đào tạo và tái đào tạo tại các trung tâm đào tạo quốc tế và đang phối hợp với các tổ chức hàng hải quốc tế nói trên xúc tiến việc tổ chức các lớp đào tạo tại Việt Nam nhằm đào tạo nhanh hơn, nhiều hơn đội ngũ cán bộ chuyên môn, quản lý cho ngành. Chính vì vậy mà trình độ của người lao động trong Vinalines. đặc biệt là lớp cán bộ nhân viên trẻ ngày càng được củng cố và nâng cao.

Mặt khác, Vinalines thực hiện đa dạng hoá hình thức huy động vốn. Trong giai đoạn 2006- 2010, Vinalines cần khoảng 51 tỷ đồng để thực hiện các dự án đầu tư [36]. Để đáp ứng nhu cầu này, bên cạnh hình thức huy động vốn truyền thống là vay vốn từ các ngân hàng thương mại trong nước, Vinalines cần đa dạng hình thức huy động vốn, tiếp tục xác định tập trung thực hiện chương trình cổ phần hoá để thu hút nguồn vốn của toàn xã hội,

hướng tới thị trường vay vốn quốc tế thông qua kêu gọi vốn đầu tư từ các nhà đầu tư tài chính quốc tế, vay vốn ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó sẽ phát hành trái phiếu quốc tế, tiến hành liên doanh, liên kết với các hãng tàu và tập đoàn khai thác cảng lớn nhất thế giới.

Vinalines cũng không ngừng tìm kiếm các cơ hội hợp tác đầu tư với các tổ chức trong và ngoài nước để phục vụ cho mục đích hội nhập của mình và đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Một ví dụ điển hình là vào ngày 04/08/2006, tập đoàn Bảo Việt và Vinalines đã ký kết thoả thuận nguyên tắc hợp tác đầu tư, thoả thuận hợp tác đầu tư này hy vọng sẽ đem lại hiệu quả cũng như nâng cao hình ảnh thương hiệu của các bên. Các bên sẽ trở thành cổ đông chiến lược của nhau, tập trung phát triển các dịch vụ: bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, hàng hải…Bản thoả thuận nhằm tăng cường hợp tác một cách sâu rộng hơn trong việc đầu tư kinh doanh, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Vinalines, tận dụng mọi tiềm lực, phát huy sức mạnh, tăng cường khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập.

2.2.2. Các kết quả hội nhập kinh tế quốc tế tại Vinalines.

Từ khi thành lập, các công ty liên doanh đã thiết lập và duy trì quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác thuộc Vinalines và qua đó đã cùng với đội tàu vận tải biển tạo nên một hệ thống vận tải- dịch vụ khép kín và đồng bộ. Thông qua việc quan hệ của các đối tác nước ngoài trên thị trường vận tải quốc tế, kết hợp với việc đầu tư đổi mới thết bị, công nghệ cũng như cách điều hành, quản lý, các công ty liên doanh đều kinh doanh có hiệu quả, xây dựng được uy tín đối với khách hàng trong và ngoài nước, góp phần không nhỏ vào việc mở rộng thị trường kinh doanh của Vinalines ra khu vực.

Đến nay, hầu hết các liên doanh của Vinalines đều có mức tăng trưởng cao, mang laị lợi nhận cho các bên mà vẫn đảm bảo được quyền chủ động của bên Việt Nam trong việc quyết định về đầu tư, nhân lực và thị trường. Qua vài năm hoạt động, lao động Việt Nam trong hầu hết các liên doanh đều đã nhanh

chóng trưởng thành, tiếp thu và nắm bắt được những kiến thức, công nghệ và cung cách quản lý mới, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. Tại các liên doanh của Vinalines, cán bộ Việt Nam đã hoàn toàn thay thế các chuyên gia nước ngoài nắm giữ những cương vị chủ chốt trong điều hành và quản lý công ty.

Việc thực hiện chương trình đầu tư và đổi mới đội tàu được xác định là nhiệm vụ trọng tâm số một của Vinalines (Theo quyết định số 1419 QĐ-TTg ngày 1/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển Tổng công ty hàng hải Việt Nam giai đoạn 2001-2005 và định hướng đến 2010 thì đội tàu của Vinalines vào năm 2005 sẽ có tổng trọng tải 1,5 triệu tấn với tuổi tàu bình quân dưới 15 tuổi [phụ lục 5: Tổng hợp dự kiến đầu tư phát triển đội tàu đến năm 2010]. Trên cơ sở đó phải có kế hoạch đóng mới và mua thêm 75 tàu với tổng trọng tải 938.000 tấn. Tuy nhiên tốc độ đầu tư nâng cao năng lực vận tải đội tàu còn chậm so với kế hoạch do có nhiều khó khăn về vốn. Riêng về kế hoạch đóng mới đã có sự khởi đầu tích cực: Chương trình đóng mới các tàu trong nước theo quyết định 1419 đã được chính thức triển khai từ năm 2003 qua việc ký hợp đồng nguyên tắc, sau đó là ký các hợp đồng cụ thể giữa Vinalines và Vinashin. Ngoài ra Vinalines đã thực hiện mua thêm tàu của nước ngoài. Năm 2005, Vinalines đã đầu tư 3.302 tỷ đồng phát triển đội tàu, xây dựng cơ sở hạ tầng, cảng biển…phục vụ cho công cuộc hội nhập. Đội tàu của Vinalines đã vận chuyển 21,7 triệu tấn hàng, trong đó vận tải quốc tế là 19,5 triệu tấn. Các cảng do Vinalines quản lý đã bốc xếp 37,4 triệu tấn hàng hoá… Tổng doanh thu của Vinalines đạt 10.522 tỷ đồng. Năm 2006, Vinalines tiếp tục đóng mới 22 tàu còn lại trong chương trình đóng mới 32 tàu tại các nhà máy đóng tàu trong nước, mua 16 tàu của nước ngoài. Một số mục tiêu cụ thể là: vận chuyển 23,4 triệu tấn hàng, bốc xếp 39,7 triệu tấn hàng tại các cảng, phấn đấu đạt doanh thu 11.400 tỷ đồng [36]. Định hướng đầu tư của

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Vinalines là tập trung đầu tư các tàu trẻ, có tính năng khai thác hiện đại, thoả mãn yêu cầu lâu dài của công ước quốc tế.

Ngoài ra, không thể trông chờ vào một vài cơ sở sửa chữa hiện có trong nước và để chủ động hơn trong việc khai thác đội tàu, mới đây, Vinalines đã chấp thuận cho Công ty Hàng hải Đông Đô đầu tư xây dựng một khu dịch vụ sửa chữa tàu biển tại Hải Phòng. Dự án sẽ cung cấp dịch vụ sửa chữa cho đội tàu của Đông Đô và các doanh nghiệp thành viên của Vinalines. Dự kiến mức đầu tư giai đoạn đầu là 8 triệu USD với 1 ụ nối hơn 8.000 DWT Nhiều chuyên gia nhận định, nếu thực hiện tốt, dự án này sẽ có nhiều khách hàng trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của vinalines vào nền kinh tế quốc tế.

Vinalines và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 7

Hiện nay, Vinalines cũng đã hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cảng biển: Cảng Sài Gòn đang hợp tác với tập đoàn Maersk A/S của Đan Mạch và

Cảng Singapore để phát triển hai cảng mới tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Theo kế hoạch, cảng Sài Gòn và Maersk sẽ đầu tư 187 triệu USD để phát triển cảng ở thượng nguồn khu vực cảng Cái Mép – Thị Vải gồm hai cầu tàu. Khi hoàn thành xây dựng vào năm 2010, 2 cầu tàu có thể bốc dỡ 950.000 TEU/năm. Ở dự án thứ hai, Cảng Sài Gòn và Cảng Singapore sẽ đầu tư một cảng với vốn đăng ký ở giai đoạn I là 165 triệu USD kết thúc vào năm 2010 và tăng thêm 133 triệu USD ở giai đoạn II. Bốn cầu tàu ở hạ nguồn của khu vực cảng Cái Mép sẽ được xây dựng với khả năng bốc dỡ 1,5 triệu TEU/năm. Vốn góp của Cảng Sài Gòn trong hai liên doanh đều là 51% cho mỗi dự án [22].

Cảng Hải Phòng thực hiện nâng cấp cảng giai đoạn 2 đã cơ bản hoàn thành các hạng mục chính. Với sự giúp đỡ của nhà thầu và tư vấn giám sát Nippon Koei (Nhật Bản), dự án đã thực hiện nạo vét hơn 15,2 triệu m3 đất cùng hệ thống phao tiêu báo hiệu trên cả tuyến luồng ngoài biển và trong sông. Bên cạnh đó việc kè đầu kênh Hà Nam đã đạt 85% khối lượng. Hạng mục mở rộng bến container Chùa Vẽ đã hoàn tất, trong đó bến số 4 đã bàn

giao cho Cảng Hải Phòng để đưa vào khai thác ngay từ đầu năm 2006. Bãi container đang khẩn trương thi công, dự kiến hoàn thành vào quý IV / 2006 [23].

2.2.3. Đánh giá các điều kiện cần và đủ để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế của Vinalines.

Vinalines muốn hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì điều kiện cần và đủ là nâng cao chất lượng phục vụ, giá cả phục vụ, thời gian và độ tin cậy của quá trình phục vụ khách hàng:

- Chất lượng phục vụ: Ngành hàng hải mang tính quốc tế cao, nên nó chịu chi phối mạnh mẽ của quy luật cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh vừa là đòn bẩy để các doanh nghiệp hàng hải tiến lên để phát triển, vừa hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới, nhưng đồng thời cũng là sức ép đối với các doanh nghiệp. Nếu không lấy chất lượng làm mục tiêu phấn đấu, nếu chạy theo lợi nhuận trước mắt, rõ ràng doanh nghiệp sẽ bị đẩy lùi ra ngoài vòng quay của thị trường thế giới. Do đặc trưng khác biệt của ngành hàng hải nên chất lượng phục vụ là việc thoả mãn được các yêu cầu của người gửi hàng bằng đường biển từ lúc họ giao hàng cho người vận tải cho đến khi họ nhận hàng từ người vận tải giao cho. Tức là hàng hoá được vận chuyển nhanh gọn, không bị hao hụt, hư hỏng trong quá trình vận chuyển và với giá cả hợp lý mà người gửi hàng chấp nhận được.

- Giá cả phục vụ: trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của từng nước cũng như của thế giới ngày càng phát triển thúc đẩy sản xuất nhiều sản phẩm tiêu dùng cho xã hội. Do đó nhu cầu vận tải hàng hoá ngày càng tăng, khách hàng ngày càng có yêu cầu cao hơn về tính an toàn, tiện lợi và giá cả phục vụ của ngành vận tải. Do sự cạnh tranh gay gắt nên khách hàng có quyền lựa chọn người vận tải của các quốc gia khác nhau cho mình. Buôn bán quốc tế ngày càng được mở rộng, hàng hoá được vận tải phải qua nhiều quốc gia khác nhau. Giá cả sản phẩm dịch vụ vận tải còn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu

trên thị trường. Vì thế muốn kinh doanh có hiệu quả góp phần hội nhập, phải giảm chi phí vận tải tới mức tối đa.

- Thời gian và độ tin cậy trong quá trình phục vụ: nhiệm vụ của quá trình vận tải hàng hoá là việc di chuyển hàng hoá trong không gian phục vụ cho các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế trong các quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, thời gian và độ tin cậy của quá trình phục vụ là một trong những yếu tố quan trọng. Thời gian đưa hàng từ nơi gửi tới nơi nhận là một yếu tố cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải. Muốn hội nhập, khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế, chúng ta phải rút ngắn thời gian này, đồng thời vẫn giữ được chất lượng phục vụ tốt nhất.

2.3. Cơ hội, thách thức đối với Vinalines trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:

Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, chính sách hàng hải của các quốc gia ngày càng cởi mở hơn, trên cơ sở bảo hộ hợp lý, có điều kiện ngày càng tự do và thương mại hoá. Chính sách mở của thị trường của các nước nhằm nâng cao tính hiệu quả và thu hút đầu tư nước ngoài qua đó thúc đẩy ngành hàng hải phát triển phục vụ cho thương mại phát triển. Chính sách mở cửa thị trường hàng hải được thực hiện qua:

- Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT).

- Chính sách cho phép sự hiện diện thương mại: liên doanh, hợp tác, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài.

- Chính sách cho phép sự hiện diện của thể nhân làm các dịch vụ hàng hải.

- Chính sách thương mại hoá dịch vụ hàng hải thông qua việc công ty hoá, cổ phần hoá, tư nhân hoá…

- Mức độ mở cửa thị trường hàng hải và các dịch vụ có liên quan.

- Sự liên kết giữa hàng hải với thương mại, bảo hiểm.

- Chính sách khu vực và toàn cầu thông qua hợp tác quốc tế và khu vực về dịch vụ hàng hải.

Những chính sách đó cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành hàng hải thế giới thời gian qua đã và đang tạo những điều kiện hết sức thuận lợi cho Vinalines nói riêng và ngành hàng hải Việt Nam nói chung phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành hàng hải thế giới đã thời gian qua được đặc trưng bởi các xu thế:

- Việc thâm nhập và tốc độ phát triển nhanh chóng của vận tải container trong vận tải biển.

- Việc xuất hiện các tuyến vận tải chính với các tàu container lớn và có hiệu quả.

- Tàu biển ngày càng lớn hơn và đòi hỏi hoạt động có hiệu quả hơn.

- Xuất hiện các công ty vận tải khổng lồ do liên minh, liên kết toàn cầu.

- Xuất hiện mạng lưới cảng chính yếu và cảng chân rết.

- Xuất hiện các trung tâm chuyển tải container chủ yếu.

- Phát triển vận tải đa phương thức.

Đứng trước các xu thế đó, là công ty mạnh nhất trong ngành hàng hải Việt Nam, Vinalines cũng có những thay đổi hướng về hội nhập. Quá trình hội nhập đó giúp cho Vinalines có những cơ hội rất tốt để phát triển nhưng đồng thời với nó là những thách thức không nhỏ.

2.3.1. Cơ hội:

- Do có sự thay đổi về cơ cấu kinh tế thế giới, xu thế phát triển mới của ngành hàng hải, thị trường vận tải thế giới ngày càng được mở rộng. Việt Nam lại nằm trong khu vực có mức tăng trưởng cao nhất thế giới, việc đẩy mạnh xuất khẩu của các nước làm cho ngoại thương phát triển nhanh chóng, nắm bắt được tình hình thế giới như vậy sẽ là một cơ hội rất tốt cho ngành hàng hải Việt Nam nói chung và Vinalines nói riêng phát triển.

- Đối với đội tàu: các nhà khai thác tàu chuyến ở Châu Á chủ yếu tham gia vào 2 loại hình khai thác: trực tiếp giữa các nước Châu Á và gom hàng để vận chuyển (Feeder) giữa các cảng nội địa tới các cảng trung tâm (Hub) ở Châu Á. Vì vậy, nếu Vinalines cải thiện chất lượng dịch vụ của mình bằng cách thay thế các tàu cũ bằng những tàu lớn hơn, hiệu quả hơn, đồng thời giảm bớt số tàu hoạt động không hiệu quả, thì sẽ có cơ hội thâm nhập vào thị trường hàng hải đang rất sôi động này ở Châu Á.

Thị trường bên ngoài đối với tàu chở hàng khô vẫn là cơ hội để đội tàu của Vinalines tham gia chia sẻ trong quá trình vận chuyển hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Do các nước trong khu vực vẫn chủ yếu nhập gạo của Việt Nam, cự ly vận chuyển ở các tuyến đường này gần, hàng hải đơn giản và quen thuộc, dặc biệt là vấn đề kiểm tra an toàn ở các nước trong khu vực dễ dãi hơn các khu vực khác trên thế giới. Trong khi đó, Thái Lan là nước cạnh tranh của ta trong lĩnh vực này thì có các đội tàu biển còn nhỏ, tuổi tàu từ trên 15 năm đến 25 năm khá nhiều. So sánh trong khu vực thì chỉ có đội tàu của Trung Quốc và Singapore là lớn hơn hẳn nhưng chủ yếu là tàu chở dầu, container và các loại tàu dịch vụ khác. Vì vậy cơ hội của đội tàu chở hàng khô là rất lớn.

- Đối với cảng biển:

+ Tiềm năng của các cảng biển là rất lớn do thị phần cảng biển của Việt Nam còn rất khiêm tốn, đặc biệt so với dân cư.

+ Do hội nhập kinh tế, thị trường cho cảng tăng lên (do buôn bán ngoại thương đang rất phát triển).

+ Hội nhập kinh tế và ngoại thương của APEC, ASEAN, ASEM và sự phát triển mạng lưới giao thông xuyên Á tạo điều kiện mở ra thị trường mới cho cảng biển.

- Đối với hoạt động dịch vụ hàng hải: Những năm gần đây, nhờ có quá trình hội nhập, lượng hàng thông qua các cảng biển của Việt Nam không

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 19/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí