Tăng Cường Quản Lý Nhà Nước Trong Lĩnh Vực Vận Tải Biển.

dụng mạnh mẽ trong các dịch vụ hàng hải. Vì thế Vinalines cũng cần đi theo xu hướng này. Để thực hiện tốt, Vinalines cần phải:

Đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất đồng bộ, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của dịch vụ hàng hải, đặc biệt là dịch vụ vận chuyển trọn gói “door to door”. Hệ thống này bao gồm các phương tiện trên biển và trên bộ, hệ thống kho bãi, bồn chứa, các thiết bị bốc xếp…Tuy nhiên, để tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, lãng phí trong các doanh nghiệp thành viên, Vinalines cần có quy hoạch cụ thể, chi tiết cho cả hệ thống, đồng thời cùng với sự phân công cụ thể phải có kế hoạch điều hành thống nhất cho toàn hệ thống đó.

Vinalines cần sắp xếp một cách hợp lý các doanh nghiệp thành viên làm dịch vụ hàng hải, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực, tích cực mở rộng thị trường ra các nước trong khu vực và trên thế giới. Vinalines cần xác định rõ, ở lĩnh vực dịch vụ hàng hải, chúng ta phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt từ các tập đoàn lớn trên thế giới. Muốn cạnh tranh được, không còn cách nào khác là phải phát huy nội lực, đầu tư công nghệ mới, tập trung vốn trong nước để có đủ tiềm lực và sức mạnh cạnh tranh.

Tổ chức hoạt động kinh doanh hướng về mở cửa thị trường dịch vụ hàng hải, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, hướng ra thị trường bên ngoài: Trong điều kiện dần mở cửa thị trường, tiến tới hội nhập hoà toàn, Vinalines bằng vào nội lực của mình cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước cần có chính sách hợp lý trong việc tổ chức hoạt động kinh doanh để vươn lên. Vinalines cần tự khẳng định mình bằng chất lượng dịch vụ và giá cả, xác định rõ phương hướng kinh doanh, không ỷ lại vào chính sách bảo hộ chỉ mang tính tạm thời của Nhà nước, phải xác định rõ thông qua cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Muốn hội nhập, tất cả các doanh nghiệp thành viên trong Vinalines có khả năng phát triển đều phải đa dạng hoá dịch vụ hướng ra bên ngoài. Dịch vụ này sẽ hỗ trợ dịch vụ kia trong một chu trình khép kín, đồng thời làm cho doanh nghiệp có thể thích ứng được với những

tình huống khó khăn khi bị giành giật thị phần. Các doanh nghiệp thành viên trong Vinalines phải luôn có phương châm đa dạng hoá để tồn tại, thêm vào đó, khi thâm nhập vào thị trường khu vực có thể sử dụng hai hình thức: tự mình đặt chi nhánh ở nước ngoài để chia sẻ thị trường khu vực hoặc tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài để cùng chia sẻ thị trường trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Trong giai đoạn hiện nay, trước khi hội nhập hoàn toàn, Nhà nước ta đang có chính sách bảo hộ hợp lý như các chủ tàu nước ngoài bắt buộc phải chỉ định một công ty đại lý tàu biển của Việt Nam làm tổng đại lý cho tàu của mình, vì thế, Vinalines cần tận dụng cơ hội, nhanh chóng nâng cao năng lực nhằm đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong tương lai, bước từng bước vững chắc trong hội nhập. Vinalines cần tổ chức hoạt động kinh doanh hướng về mở cửa thị trường dịch vụ hàng hải cụ thể như sau:

- Xây dựng, phát triển nhanh, có định hướng đội tàu, tập trung phát triển đội tàu chở container, tàu chở dầu, tàu chở hàng khô loại lớn theo hướng đi thẳng lên hiện đại nhằm tăng khả năng cạnh tranh để từng bước nâng cao thị phần trong thị trường vận tải quốc tế và khu vực.

- Tận dụng năng lực các cảng hiện có. Triển khai xây dựng thêm các cảng biển nước sâu để tiếp nhận tàu có trọng tải lớn, tạo điều kiện phát triển thành cảng trung chuyển khu vực.

- Xây dựng các cơ sở dịch vụ liên quan đến quy trình vận tải container như phát triển cảng cạn, bãi container, trung tâm phát hàng, phương tiện vận tải container trên bộ, trên sông. Hình thành các tổ chức thống nhất Vận tải – Cảng biển – Dịch vụ để khai thác dịch vụ vận tải đa phương thức.

- Nhằm nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế khu vực, phân chia thị trường thông qua hoạt động của ngành hàng hải, Vinalines cần học tập mô hình hoạt động kinh doanh của các tập đoàn hàng hải lớn trong khu vực của Singapore, Malaysia như Neptune Orient Lines, LTD (NOL) hay Malaysia International Shipping Corporation (MISC) về kinh doanh đa ngành nghề, đa

sở hữu với chiến lược kinh doanh cạnh tranh và mua bán sang nhượng lẫn nhau trên phạm vi toàn cầu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Ngoài ra, Vinalines cần tham gia tích cực hơn nữa vào các hiệp hội ngành nghề dịch vụ vận tải biển như: Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam, Hiệp hội Cảng biển Việt Nam, Hiệp hội Giao nhận vận tải Việt Nam… Các hiệp hội này sẽ bảo vệ quyền lợi của các hội viên và phối hợp hành động trong việc cung cấp các dịch vụ trong nước cũng như nước ngoài trong hội nhập và hợp tác khu vực và thế giới. Khi tham gia vào các tổ chức này, Vinalines cần đảm bảo chất lượng dịch vụ theo chuẩn quốc tế, theo các điều kiện mà Việt Nam đã cam kết trong các điều ước quốc tế. Để thu hút khách hàng và để khách hàng tin tưởng, an tâm làm ăn với ta, Vinalines cần đạt được các chẩn mực trong ngành hàng hải. Đó là công cụ nâng cao uy tín trên thương trường quốc tế, tạo thêm bạn hàng. Và muốn hội nhập với thế giới, chúng ta bắt buộc phải nghiên cứu và áp dụng các chuẩn quốc tế để đáp ứng những yêu cầu của các thị trường đòi hỏi khắt khe về chất lượng công việc dịch vụ. Đặc biệt là phải thực hiện đầy đủ các điều khoản của Bộ luật Quản lý an toàn (ISM Code), theo quy định này, các tàu của Vinalines phải đáp ứng những yêu cầu hết sức khắt khe để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, hàng hoá vận chuyển, con tàu cũng như các tài sản khác. Các chủ hàng sẽ không ký hợp đồng với những chủ tàu không tuân theo bộ luật này. Chính vì thế, đội ngũ tàu vận tải của Vinalines phải không ngừng đổi mới để có thể đáp ứng được với những yêu cầu liên tục thay đổi và ngày càng khắt khe của thị trường.

3.2.4. Tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực vận tải biển.

Vinalines và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 10

Việc tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực vận tải và biển vừa tạo môi trường thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả kinh doanh, vừa đảm bảo hoạt động lành mạnh, tạo điều kiện cho vận tải, xếp dỡ hàng hoá được thông suốt.

Trong các chính sách phát triển ngành Hàng hải Việt Nam, nên chú ý đến kinh nghiệm của một số nước ASEAN là tạo điều kiện thuận lợi tối đa, khuyến khích vận tải phục vụ xuất nhập khẩu hàng hoá, phần quan trọng giúp phát triển dịch vụ hàng hải. Bảo hộ hợp lý một số dịch vụ, bảo hộ cao đối với vận tải hàng hoá nội địa và dịch vụ đại lý. Thương mại hoá và tự do hoá từng bước các dịch vụ hàng hải theo phương châm đi dần từng bước vững chắc trên cơ sở năng lực của mình. Cụ thể, để nhanh chóng tiến tới hội nhập và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, Nhà nước cần xác định Vinalines là nòng cốt, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho Vinalines làm đầu tàu phát triển.

Cần có các văn bản pháp quy chính thức quy định và hướng dẫn việc bảo đảm và khuyến khích quyền bình đẳng tham gia vào lĩnh vực vận tải biển của các công ty trong nước.

Bổ sung, sửa đổi các quy định về các hình thức vận tải tiên tiến như vận chuyển bằng container, vận chuyển đa phương thức… cho phù hợp với sự phát triển của hàng hải quốc tế và Việt Nam.

Sửa đổi một số các quy định về cảng biển, về trách nhiệm dân sự chủ tàu, giải quyết tranh chấp hàng hải, tố tụng hàng hải… cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tế Việt Nam.

Ngoài ra cần phải đẩy nhanh tốc độ gia nhập các công ước quốc tế. Một trong những nguồn quan trọng nhất của luật quốc tế là các điều ước quốc tế. Điều này đặc biệt chính xác với Luật Hàng hải quốc tế. Khi các điều ước quốc tế có hiệu lực, nó sẽ trở nên ràng buộc với các bên tham gia. Cũng có thể xảy ra trường hợp các quy định trong một điều ước nào đó lại được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên trường quốc tế, và sau một thời gian có thể được coi là đã trở thành tập quán quốc tế mang tính ràng buộc với tất cả các quốc gia dù có hay không là thành viên của công ước đó. Việt Nam cần đẩy nhanh tiến độ hội nhập vào tiến trình tự do hoá dịch vụ và đưa ra những biện pháp khích lệ

mới nhằm thiết lập một thị trường chung duy nhất trong các nước ASEAN, tạo điều kiện lưu thông tự do các loại hàng hoá dịch vụ. Đây cũng là điều kiện rất tốt để phát triển ngành hàng hải.

Cho đến nay Việt Nam đã tham gia 8 công ước quốc tế về hàng hải và công ước quốc tế của Liên hợp quốc năm 1982 về Luật biển (UNCLOS 1982). Có thể nói, Việt Nam đã thực hiện tốt các điều ước quốc tế về hàng hải quốc tế đã gia nhập, trong đó đáng chú ý là Công ước quốc tế của Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) về tiêu chuẩn đào tạo, cấp chứng chỉ và đi ca của thuyền viên (STCW-78, sửa đổi năm 1995), các hiệp định khung của ASEAN về dịch vụ.

Tuy nhiên trong quá trình chủ động vươn ra hội nhập kinh tế quốc tế, để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành Hàng hải trong một khung pháp lý chuyên ngành ngày càng hoàn chỉnh, vừa bảo vệ quyền lợi quốc gia, vừa phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, Việt Nam cần nghiên cứu và nhanh chóng thức hiện việc tham gia thêm một số công ước quốc tế có liên quan.

Trên cơ sở các điều ước quốc tế về hàng hải Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật chưa phù hợp theo nguyên tắc: vấn đề đã có quy định nay sửa đổi theo đúng quy định của điều ước quốc tế, vấn đề gì chưa có nay ban hành quy phạm pháp luật mới.

Nhà nước cần có biện pháp bảo hộ hợp lý và có điều kiện cho các doanh nghiệp dịch vụ hàng hải Việt Nam. Công bố cụ thể lộ trình hội nhập để các doanh nghiệp chủ động chuẩn bị kế hoạch kinh doanh và đầu tư. Lộ trình nên xác định rõ: mở cửa thị trường đến mức nào, thời gian thực hiện là khi nào?

Tổ chức phối hợp quy hoạch giữa các ngành Đường biển, Đường sông, Đường sắt, Đường bộ, nhất là trong việc xây dựng các khu đầu mối giao

thông nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng khép kín quy trình công nghệ mới một cách có hiệu quả.

Đứng trước những thách thức mới về sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế cùng với sự cạnh tranh khốc liệt mang tính quốc tế đòi hỏi phải có những bước đổi mới căn bản, mạnh mẽ về cơ chế, chính sách tài chính để tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh, thích ứng với quá trình hội nhập. Vì vậy trong giai đoạn tới, các cơ quan chức năng cần triển khai các giải pháp tháo gỡ và giải quyết cơ bản các khó khăn trở ngại về cơ chế, chính sách, luật pháp để làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp, tạo điều kiện thận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế.

Căn cứ kế hoạch và các mục tiêu đã đề ra, Vianlines nghiên cứu và đề nghị xây dựng một số biện pháp cụ thể gồm: Đổi mới mô hình tổ chức và cơ chế quản lý (đảm bảo cho Vinalines có quyền chủ động huy động mọi nguồn lực để đầu tư, phát triển). Hoàn thiện quy trình công nghệ và tổ chức sản xuất khép kín ở cả trong nước và một số đầu mối trong khu vực cho cả ba loại hình kinh doanh vận tải – cảng – dịch vụ trên cơ sở chiến lược kinh doanh chung của Vinalines. Xây dựng và thực hiện cơ chế tạo vốn “mở” gồm vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và huy động vốn tự có của doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên. Tổ chức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức.

Để đạt được những mục tiêu kế hoạch như vậy, các doanh nghiệp của Vinalines phải nâng cao năng lực đội tàu bằng cách kiến nghị các cơ quan chức năng giải quyết vốn cho đóng mới và ngoài các chính sách như đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng hải và vận tải biển như trên, Vinalines cần tiếp tục kiến nghị lên chính phủ một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển vận tải biển như giành toàn bộ hàng hoá vận chuyển nội địa cho đội

tàu Việt Nam, giành quyền vận tải cho đội tàu biển Quốc gia vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu bằng nguồn tài chính của Nhà nước, thực hiện tốt các dự án về cảng biển theo kế hoạch đã đề ra. Cụ thể như sau:

- Về quản lý tài chính: Thay đổi phương thức đầu tư tài chính từ giao vốn thành đầu tư vốn, thêm vào đó, cần có cơ chế tài chính để phân biệt rõ hai nguồn vốn của doanh nghiệp hiện nay: vốn ngân sách và vốn tự tích luỹ và phương thức quản lý, sử dụng, định đoạt các tài sản hình thành từ các nguồn vốn vay để đẩy nhanh quá trình đa dạng hoá sở hữu.

- Về cơ chế chính sách: đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước đổi mới các cơ chế quản lý doanh nghiệp tạo điều kiện chủ động cho Vinalines. Cải tiến cơ chế chính sách đối với người lao động: về tiền lương, tiền thưởng uỷ quyền cho Hội đồng Quản trị của Vinalines quyết định.

- Về bổ sung thêm vốn nhà nước: để Vinalines củng cố và phát huy vai trò là tổng công ty Nhà nước chủ dạo trên các hoạt động kinh doanh hàng hải, Nhà nước nên xem xét bổ sung và tăng thêm tỷ lệ vốn đầu tư của Nhà nước vào đội tàu biển và cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cảng biển cùng với đó là xem xét, cấp bổ sung thêm vốn lưu động cho Vinalines.

3.2.5. Nắm bắt các cơ hội chiếm lĩnh thị trường.

Vinalines cần có các hiểu biết sâu sắc hơn về hội nhập, về tự do hoá. Cần phải tự đánh giá được vị trí của mình không chỉ trên thị trường nội địa, mà cả thị trường quốc tế để có thể có những sự chuẩn bị phù hợp cho tương lai. Thường xuyên phải phân tích tìm ra điểm mạnh, điểm yếu trong nội tại doanh nghiệp, những cơ hội, thách thức của môi trường bên ngoài doanh nghiệp để có chiến lược đúng đắn phát triển doanh nghiệp, chiếm lĩnh thị trường.

Ngày nay các biện pháp bảo hộ của nhà nước cho phát triển thị trường ngành hàng hải như khuyến khích các chủ hàng xuất nhập khẩu sử dụng đội tàu Việt Nam đã hạn chế rất nhiều. Khi hội nhập hoàn toàn, các biện pháp bảo

hộ như vậy không giúp được đội tàu cạnh tranh trong trường hợp chở thuê giữa các cảng nước ngoài. Vì thế, khi những chính sách bảo hộ không còn nữa, Việt Nam hội nhập đầy đủ với khu vực và toàn cầu thì đội tàu của Vinalines sẽ phải hoạt động trong một môi trường chung với các điều kiện bình đẳng của thị trường vận tải biển quốc tế.

Để chuẩn bị cho đội tàu của Vinalines thực sự ngang tầm và đủ sức hội nhập quốc tế, tiếp tục giữ được và tăng thị phần vận tải xuất nhập khẩu cũng như chở thuê cho nước ngoài, không còn con đường nào khác là phải: tuân thủ các luật lệ quốc tế về hàng hải, tiếp tục tìm các nguồn vốn đầu tư để cơ cấu lại đội tàu, đẩy mạnh trẻ hoá, hiện đại hoá đội tàu, chuyên môn hoá đội tàu phù hợp với nhu cầu của thị trường và đòi hỏi của khách hàng. Đặc biệt là cần có kế hoạch đầu tư phát triển hệ thống môi giới hàng hải chuyên nghiệp để mở rộng tìm hàng cho đội tàu chuyên chở. Trước hết nhắm vào các chủ hàng xuất nhập khẩu trong nước, sau nữa là tham gia từng bước vào hệ thống môi giới quốc tế để tìm hàng cho đội tàu hoạt động ở những khu vực có lợi nhuận cao.

3.2.6. Tăng cường năng lực kinh doanh cho đội tàu biển và dành thị phần vận tải cho đội tàu biển quốc gia.

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đầu tư để các công ty vận tải biển thuê, mua và vay mua tàu mới. Cụ thể, nhà nước cần có chính sách bảo lãnh cho các công ty vận tải biển vay vốn của các ngân hàng trong và ngoài nước để mua tàu với lãi suất ưu đãi. Đặc biệt, Nhà nước ưu tiên dành một phần vốn vay chính phủ cho đội tàu nòng cốt (đội tàu của Vinalines) vay lại để phát triển đội tàu.

Có những chính sách ưu đãi về thuế đối với một số doanh nghiệp vận tải biển đang gặp nhiều khó khăn hoặc đối với tàu Việt Nam và tàu nước ngoài do Việt Nam thuê mua hay vay mua trả dần trong thời kỳ đầu kinh doanh.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 19/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí