làm, thiếu việc làm khá cao, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề việc làm, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Mặt khác, trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, tình trạng thất nghiệp là điều khó tránh. Để hạn chế thất nghiệp, một mặt phải tạo ra chỗ làm việc mới, mặt khác phải tránh cho người lao động đang làm việc lâm vào thất nghiệp. Ngoài ra, phải có hệ thống bảo hiểm cho người lao động khi họ bị thất nghiệp.
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách xã hội và các chính sách kinh tế. Thực hiện tốt chính sách việc làm, nguồn lao động được sử dụng có hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính sách việc làm chưa được giải quyết tốt, nạn thất nghiệp sẽ tăng lên và các tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng của các chính sách về bảo đảm xã hội, an ninh xã hội sẽ tăng lên và còn có thể gây ra những bất ổn về chính trị- xã hội. Trong chính sách giải quyết việc làm, một nguyên tắc cơ bản cần phải dược lưu ý, đó là đảm bảo cho mọi người được tiếp cận với cơ hội làm việc, trên cơ sở Nhà nước tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ hội chủ động tìm kiếm việc làm, chống tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, tránh thực hiện chủ nghĩa bình quân, chia đều việc làm với thu nhập thấp. Đồng thời, cũng chống việc coi nhẹ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, khiến cho tình trạng thất nghiệp trở thành vấn đề xã hội gay cấn. Cần gắn tiêu chuẩn về mức thu hút lao động của doanh nghiệp trong chính sách khuyến khích hoặc hỗ trợ doanh nghiệp.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn
1.3.1. Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia dẫn đầu thế giới về dân số và lao động. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng trên 1,3 tỷ dân, trong đó gần 70% dân cư sống và làm việc ở khu vực nông thôn với 60% là lao động nông nghiệp, hàng năm có tới trên 10 triệu lao động đến tuổi tham gia vào lực lượng lao động xã hội. Trước đòi hỏi đó, để giải quyết việc làm cho số lao động ở nông thôn ngay từ năm 1978, sau cải cách và mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc đã thực hiện phương thức sử dụng nguồn lao động tại chỗ ở nông thôn. Mục tiêu của phương thức này là thực hiện sự phân công lại lao động để sử dụng hợp lý, giải quyết việc làm cho lao động dôi thừa, tích tụ đang ngày càng nhiều ở nông thôn. Đó là những biện pháp:
Thứ nhất: Nhà nước ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ nông nghiệp phát triển, cụ thể là: Tăng thêm vốn đầu tư cho nông nghiệp, tăng giá thu mua lương thực, thực hiện chế độ khoán sản lượng đến hộ gia đình và mở rộng mạng lưới đào tạo nghề. Những chính sách này đã khuyến khích người nông dân đầu tư thêm cho nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước không ngừng nâng cao chất lượng nguồn lao động trong nông nghiệp nên đã từng bước khai thác được sức mạnh tổng hợp tài nguyên đất nước và nguồn lao động nông thôn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Thứ hai: Thực thi chính sách phát triển và kinh doanh đa dạng với nhiều hình thức: Phát triển sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề, nhiều loại sản phẩm, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và lưu thông, tăng nhanh quá trình thương phẩm hoá nông nghiệp, chuyển nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp truyền thống sang nền nông nghiệp có tính hàng hoá phát triển. Đồng thời, với việc phát triển các thị trấn, thị tứ và từng bước đô thị hoá nông thôn, Trung Quốc từng bước nâng cao cơ hội có nhiều việc làm cho người nông dân, nhờ đó đã phần nào đáp ứng nhu cầu bức
thiết của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu nghành nghề và cơ cấu việc làm ở nông thôn.
Thứ ba: Phát triển mạnh mẽ các loại hình xí nghiệp hương trấn vì loại hình này có nhiều ưu thế như sử dụng vốn ít, kỹ thuật đơn giản, thu hút nhiều lao động. Loại hình này có tác dụng rất lớn đối với nền kinh tế, nó không những tiếp tục sử dụng có hiệu quả nguồn lao động dư thừa ở nông thôn mà còn là "con đường tất yếu làm phồn vinh kinh tế nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, thúc đẩy hiện đại hoá nông nghiệp". Trong tương lai, loại hình này sẽ tiếp tục được chính phủ khuyến khích đầu tư thích đáng.
Có thể bạn quan tâm!
- Việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay - 1
- Việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay - 2
- Việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay - 3
- Việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay - 5
- Việc Làm Trong Lĩnh Vực Phi Nông Nghiệp
- Chính Sách Của Nhà Nước Và Các Chương Trình Quốc Gia Giải Quyết Việc Làm Ở Nông Thôn
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Thứ tư: Tiến hành đổi mới cơ chế quản lý lao động và việc làm theo hướng giải phóng tối đa sức sản xuất và phát huy được tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động.
Nhờ việc kết hợp hài hoà những giải pháp trên, bộ mặt kinh tế - xã hội của Trung Quốc nói chung và của nông thôn Trung Quốc nói riêng đã được thay đổi, từ đó đưa nông thôn Trung Quốc bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn "tăng trưởng có phát triển".
1.3.2. Đài Loan
Mặc dù là nước công nghiệp phát triển, dân số không đông, song kinh nghiệm của Đài Loan cho thấy quá trình công nghiệp hoá không nhất thiết phải được khởi đầu ở khu vực thành thị và một số ít trung tâm công nghiệp lớn. Qúa trình công nghiệp hoá của Đài Loan khởi đầu ở khu vực nông thôn, mà trước hết là công nghiệp chế biến nông sản, tính chất "nông thôn" của công nghiệp là một nét đặc trưng của công nghiệp hoá. Từ năm 1953 Đài Loan đã thực hiện phương châm "nông nghiệp bồi dưỡng hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển". Chính quyền Đài Loan đã giành ưu tiên hàng đầu của nhà nước về vốn đầu tư, về cơ chế chính sách cho nông nghiệp và nông thôn phát triển, đồng thời đưa ra 9 nội dung hỗ trợ sau:
+ Bãi bỏ việc đổi lúa lấy phân bón.
+ Bãi bỏ các khoản thu đối với ruộng đất.
+ Giảm lãi suất tín dụng nông nghiệp.
+ Nâng cấp giao thông nông thôn.
+ Cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn.
+ Đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật cho nông nghiệp.
+ Khuyến khích lập khu công nghiệp chuyên nghành.
+ Tăng cường cho công tác nghiên cứu, thí nghiệm phục vụ sản xuất.
+ Khuyến khích đầu tư xây dựng nhà máy ở nông thôn.
Đặc biệt, để giữ sự ổn định về việc làm cho người lao động, Đài Loan đã đưa ra một số biện pháp sau:
Thứ nhất: Phát triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp bằng cách; tăng vụ cây trồng, 2 - 3 vụ lúa xen với 1 - 2 - 3 vụ cây trồng ngắn ngày, mở rộng kinh doanh đa dạng nhiều nghành nghề, đẩy mạnh cải cách ruộng đất, điều chỉnh lợi nhuận nông phẩm.
Thứ hai: Chú trọng phát triển doanh nghiệp nông thôn quy mô vừa và nhỏ, lấy công nghệ sử dụng nhiều lao động là chính chứ không phải công nghệ sử dụng nhiều vốn và tạo điều kiện để các doanh nghiệp nông thôn mở rộng phạm vi hoạt động. Qua đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ ba: Nhà nước tạo môi trường chính sách vĩ mô ngày càng thuận lợi cho công nghiệp hoá nông thôn. Thị trường yếu tố sản xuất được vận hành một cách có hiệu qủa. Tích cực mở rộng mậu dịch đối ngoại và tăng cường khai thác thị trường quốc tế, nâng cao mức lãi suất tiết kiệm và thu hút đầu tư để gia tăng việc làm cho người lao động, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng việc làm và tăng thu nhập đảm bảo cho việc làm và thu nhập cùng tăng.
Thứ tư: Nhà nước chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn đủ tốt để đảm bảo tính năng động của công nghiệp nông thôn phân tán. Hệ thống giao thông vận tải được phát triển ngay ở giai đoạn đầu. Hệ thống đường sắt
được xây dựng chạy dọc đất nước đã nối liền các hải cảng, các trung tâm công nghiệp quan trọng với nhau. Đặc biệt trong qua trình công nghiệp hoá, nông nghiệp không bị xem nhẹ. Nông dân đã không bị loại ra khỏi phạm vi hưởng phúc lợi từ nghành nông nghiệp. Việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp đã giải phóng lao động cho công nghiệp, giảm sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị.
Thứ năm: Trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn, Đài Loan luôn chú trọng phát triển nguồn nhân lực nhằm không chỉ nâng cao lực kinh doanh mà cả chất lượng lao động. Hệ thống giáo dục được phát triển cả ở các vùng nông thôn và ngày càng quan tâm hơn đến giáo dục trung học và đào tạo chuyên môn. Năm 1970 tỷ lệ người biết chữ đạt 90% và trên 2/3 dân cư nông thôn của Đài Loan có trình độ giáo dục phổ thông. Nguồn nhân lực có chất lượng cao là tiền đề mang tính quyết định nâng cao khả năng sử dụng công nghệ và vốn của ngành công nghiệp Đài Loan nói chung và công nghiệp nông thôn nói riêng.
Quá trình CNH được thực hiện với nhiều giải pháp nêu trên đã góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội ở Đài Loan. Năm 1952, ở Đài Loan lao động nông nghiệp chiếm 50%; lao động công nghiệp chiếm 16,9%; lao động dịch vụ chiếm 27%. Đến năm 1992 lao động nông nghiệp đã giảm xuống còn 12,8%; lao động công nghiệp tăng lên 40,2%; lao động dịch vụ tăng lên 46,9%.
Do coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực hơn nhiều quốc gia khác trên thế giới, Đài Loan đã rút ngắn được khoảng cách trong thu nhập giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn. Thu nhập của nông dân Đài Loan hiện nay bằng 70% thu nhập của công nhân viên chức ở khu vực thành thị. Đặc biệt tỷ lệ thất nghiệp của Đài Loan đã được duy trì ở mức thấp dưới 3%. Đó là quá trình giải quyết lao động ở nông thôn Đài Loan.
1.3.3. Kinh nghiệm của các nước ASEAN (Singapo, Thái Lan, Malaysia...)
Các nước ASEAN đều là những quốc gia có nền văn minh nông nghiệp lúa nước phát triển lâu đời. Trong quá trình dựng nước và giữ nước luôn biết lấy nông nghiệp, lương thực để tồn tại và phát triển. Do có nhiều nét tương đồng về kinh tế, xã hội nên trong vấn đề sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở nông thôn họ đã có những biện pháp sau:
Thứ nhất: Tập trung sức phát triển nông nghiệp và nông thôn, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động (sở dĩ như vậy là vì hầu hết các nước ASEAN đều là những quốc gia nông nghiệp lạc hậu, dân số đông, có nhiều lao động dư thừa).
Thứ hai: Thực hiện chính sách chuyển mạnh nền kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại, từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, coi đó là động lực phát triển nền kinh tế, xã hội và giải quyết việc làm của mỗi nước.
Thứ ba: Phát triển mạnh mẽ các xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Đây chính là quy mô tổ chức phù hợp với công nghệ trung gian. Nó tạo nhiều công ăn việc làm cho dân cư các nước đang phát triển nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Quy mô này đòi hỏi ít vốn, nhưng vẫn có thể có được một công nghệ không lạc hậu, không quá cao, quá tốn kém. Nhà nước các nước ASEAN có thể huy động vốn trong dân để thiết lập các doanh nghiệp này. Chính từ sức bật nội lực các nước ASEAN đã vươn lên trong sự hội nhập "toàn cầu hoá" mà xây dựng nền công nghiệp quốc gia.
Thứ tư: Phát huy yếu tố con người bằng cách thường xuyên quan tâm đến đầu tư và giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, giảm dần các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gan xét duyệt và cấp giấy phép đầu tư. Duy trì sức hấp dẫn bằng việc giữ giá công nhân thấp, các ưu đãi đầu tư và tạo không khí đầu tư thuận lợi.
Thứ năm: Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược CNH hướng vào xuất khẩu, các nước ASEAN đều tập trung phát triển các công nghệ thu hút nhiều lao động, quy mô vốn trung bình và đòi hỏi tay nghề vừa phải. Đó là
các ngành dệt, may mặc, đồ chơi trẻ em, giầy da và các hàng tiêu dùng khác. Việc tạo ra công ăn việc làm cho đại đa số nhân dân cũng chính là tạo ra thị trường nội địa và vì vậy càng có điều kiện để nâng cao dân trí, cải tiến khoa học - công nghệ. Dần dần, với thu nhập và tích luỹ ngày càng cao, cùng với trình độ văn hoá được nâng lên, các nước ASEAN đã triển khai công nghệ cao hơn, cần nhiều vốn và kỹ thuật cao. Các ngành công nghiệp như luyện kim, đóng tàu, máy điện, viễn thông và sản xuất các thiết bị văn phòng được đầu tư và nâng cấp.
Chương 2
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG - VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
2.1. Động thái lao động - việc làm ở nông thôn nước ta trong những năm qua
2.1.1. Cơ cấu lao động nông thôn
Cơ cấu lao động nông thôn trong những năm qua biến động theo hướng chuyển dịch một bộ phận lao động nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp. Quá trình này phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế chung cả nước, của khu vực phi nông nghiệp ngay tại các vùng nông thôn, mức đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, sự mở mang và phát triển các khu công nghiệp, đô thị mới... Trên cả nước, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu lao động xã hội có xu hướng tăng, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm mặc dù xu thế này diễn ra vẫn chậm (đồng bằng sông Hồng, Nam Trung Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và miền núi trung du phía Bắc).
Về mặt phân bố dân cư và lao động theo vùng ở nước ta thể hiện một sự tương phản rõ nét. Đồng bằng sông Cửu long, đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ chiếm tới trên 57% tổng dân số cả nước và chiếm tới trên 59% tổng lực lượng lao động. Cao nhất là đồng bằng sông Cửu long với trên 21% tổng dân số và cả nước, thấp nhất là Tây bắc với 2,9% dân số và 2,7% lao động. Nếu tính theo mật độ dân số thì các vùng đồng bằng chiếm tỷ lệ rất cao. Cụ thể các vùng như sau; đồng bằng bắc bộ 1172 người/km2; Đông nam bộ 277 người/km2, Duyên hải miền trung là 161 người/km2, nơi thấp nhất là Tây Nguyên 33 người/km2, trong khi miền núi trung du Bắc bộ là 93 người/km2. Những vùng có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, có cơ sở hạ tầng, trình độ văn hoá xã hội phát triển thì lao động vẫn tập trung đông hơn [45].