triển của cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên, mức sinh ở các vùng còn khác nhau: TB, TN có mức sinh cao khoảng gấp rưỡi vùng ĐBSH và ĐNB.
Hiện nay, cần chú trọng cung ứng đầy đủ và liên tục phương tiện và dịch vụ DS &SKSS có chất lượng cao để giữ vững tỉ lệ tránh thai, mức sinh đã đạt được, tức là đẩy mạnh Chương trình KHHGĐ đi vào chiều sâu hơn là bề rộng. Chương trình DS &SKSS cần có sự tập trung, ưu tiên trước hết cho TN, TB nói riêng và nông thôn nói chung; DS&SKSS ở miền núi phải đồng thời với việc ưu tiên xây dựng và thực hiện chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em, giảm thấp tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh nói riêng và tỉ lệ tử vong ở trẻ em nói chung.
Từ mức tăng trung bình 2,1% mỗi năm trong thập niên 80 và hiện nay đã giảm xuống còn 1,2%, việc cải thiện mức sống vật chất cũng như môi trường sống cởi mở hơn, là những yếu tố chủ yếu làm tăng tuổi thọ của người dân từ 63,4 tuổi năm 1992 lên 76 tuổi năm 2007.
Quan niệm của người dân, đặc biệt của hàng triệu gia đình nông dân, về hạnh phúc gia đình , về nuôi dạy con cái đã biến đổi, cách nghĩ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, “đông con nhiều phúc”, “trọng nam khinh nữ” vốn đã từng chi phối động thái dân số cảu Việt Nam, hàng ngàn năm đã bắt đầu thay đổi một cách sâu sắc và nhanh chóng. Người dân đã thấy được lợi ích của việc giảm mức sinh đẻ đối với chính gia đình mình trong tác động qua lại với cả xã hội.
Đặc biệt phụ nữ là người được hưởng lợi ích nhiều nhất từ việc giảm tỉ lệ sinh đẻ, nhờ giảm số lần sinh, thời gian phụ nữ phải chịu đựng những vất vả của việc mang thai và rủi ro sinh nở giảm xuống. Đồng thời do ít con nên gánh nặng của việc nuôi dạy con mà họ phải gánh vác, phần lớn cũng bớt đi, nhưng ở nông thôn, thời gian làm việc mỗi ngày của phụ nữ, thường từ 14 – 16 giờ, dài hơn của nam giới 4 – 6 giờ, ngoài ra họ còn phải đảm nhận các công việc nội trợ và chăm sóc con cái, chính vì vậy nên quan tâm đến việc giải phóng phụ nữ và tăng sự bình đẳng về giới.
Tóm lại thành tựu về giảm tốc độ tăng dân số ở Việt Nam trong những năm vừa qua là to lớn, song cũng có nhiều vấn đề đáng quan tâm, đó là gánh nặng nuôi dạy con và chăm sóc trẻ em trước mắt và áp lực việc làm, thất nghiệp sẽ tăng trong tương lai.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, kinh tế của mỗi gia đình có phần khá giả hơn thì lại có nghĩ, sinh thêm con để thừa hưởng tài sản để lại, nhất là sinh con trai, nên gia tăng tự nhiên lại có phần nhích lên và một điều quan trọng nữa là họ đã biết những chỗ sơ hở để lách luật, hiện nay Nhà nước đang phải xem xét và sự chấn chỉnh pháp lệnh dân số.
2.3.3. Tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị / thiếu việc làm ở nông thôn (%)
Có thể bạn quan tâm!
- Tiêu Chí Hóa Trong Nghiên Cứu Địa Lí Vùng Lãnh Thổ Dân Cư Xã Hội
- Chỉ Tiêu Hóa Trong Dạy Học Địa Lí 9 Theo Hướng Tích Cực Hóa
- Phân Hóa Vùng Dưới Tác Động Của Quá Trình Cnh-Hđh
- Cập Nhật Hệ Thống Chỉ Tiêu Phát Triển Dcxh Theo Vùng
- Một Số Chỉ Tiêu Phát Triển Dân Cư, Xã Hội Ở Đông Nam Bộ
- Nêu Ý Nghĩa Của Việc Tính Tỷ Lệ Người Biết Chữ?
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Thiếu việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam, luôn là một vấn đề chủ yếu phải xử lí trong quá trình phát triển. Ba yếu tố chính có quan hệ nhân quả với nhau dẫn đến tình trạng này, thứ nhất là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các nguồn lực dân số trẻ, lao động dư thừa trong điều kiện khan hiếm các nguồn các nguồn lực sản xuất như vốn, đất đai; thứ hai là hiệu quả sử dụng lao động thấp chủ yếu do những khiếm khuyết về thể chế, chính sách kinh tế làm sai lệch sự phân bố các nguồn lực; thứ ba là tình trạng thiếu lao động có kĩ năng chuyên môn mặc dù lao động nói chung dư thừa.
Nhìn nhận một cách tổng thể, đổi mới kinh tế của Việt Nam là quá trình mở rộng cơ hội việc làm và nâng cao hiệu quả lao động, hiện nay nền kinh tế nhà nước đã đổi hướng, trao quyền tự chủ hơn cho các doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, là những khâu cơ bản trong việc hình thành chủ thể mới trong nền kinh tế.
Cho dù tác động của mỗi khâu này đến việc giải quyết vấn đề việc làm với hai yêu cầu giải tỏa áp lực thất nghiệp và nâng cao hiệu quả lao động là
khác nhau, song mục tiêu của tất cả các khâu là thống nhất, hình thành nên một cơ chế phân bổ nguồn nhân lực mới .
Cơ cấu kinh tế đã bắt đầu hình thành trong các quan hệ thị trường lao động, tạo ra việc phân bổ nguồn nhân lực có hiệu quả và phát huy tính năng động của người lao động, xuất hiện sự cạnh tranh lao động, nhất là lao động có chuyên môn và lao động tri thức giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước với khu vực tư nhân và khu vực có nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Với việc chuyển sang cơ chế thị trường, người lao động nhất là người nông dân, đối diện với sự gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng của nhu cầu xã hội, trong các rào cản về hành chính – địa lí giảm di chuyển lao động trở nên tự do hơn.
Nhìn chung công cuộc Đổi mới đã giạm nhẹ sức ép của tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp, trong giai đoạn 1991 – 1999 số lao động có việc làm trong nền kinh tế tăng 30,8%, mức tăng GDP khá cao liên tục, làm giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị, đặc biệt cơ cấu lao động đã có sự thay đổi đáng kể, theo chiều hướng tích cực, số lao động hoạt trong khu vực NLN ngày càng giảm, tăng lên ở khu vực CN và DV.
Tóm lại có hai điểm nổi bật về động thái tăng trưởng việc làm trong thời kì đổi mới, một là chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa khơi dậy tiềm năng to lớn của cả xã hội, tạo điều kiện giúp người lao động lựa chọn việc làm tự do và chủ động hơn; hai là, Nhà nước không còn đóng vai trò là kênh tạo việc làm duy nhất, thì sự thích ứng hợp lí của Nhà nước với lực lượng thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong việc mở rộng cơ hội việc làm.
Tạo việc làm ổn định là điều kiện cần thiết để người dân vượt khó , nâng cao mức sống không ngừng hoàn thiện năng lực cá nhân thích ứng tốt nhất với những cơ hội mới và tình hình phát triển mới. Thất nghiệp và thiếu việc làm không chỉ làm giảm sản lượng, mà còn làm tăng chi phí xã hội và
các vấn đề như di dân, bạo lực và các tệ nạn xã hội khác. Đây cũng chính là nguy cơ tiềm tàng dẫn tới bất ổn định về kinh tế và xã hội .
Trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế đang gặp khó khăn do lạm phát, thì để có một việc làm ổn đinh là vô cùng khó, đi đôi với nó là tình trạng thiếu thợ có tay nghề cao, việc làm thì nhiều nhưng không phải ai cũng làm được, một phần là do quá trình đào tạo chưa kĩ và còn do tác phong của người Việt Nam vẫn mang hơi hướng tác phong nông nghiệp. Trong khi dư thừa lao động lại phải đối mặt với vấn đề chất lượng lao động và có sự cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tương quan giữa tỉ lệ lao động không có chuyên môn với tỉ lệ thiếu việc làm khá chặt chẽ, tình hình đó đã hạn chế khả năng và hành vi lựa chọn giữa học tiếp và đi làm của giới trẻ
2.3.4. Tỉ lệ hộ nghèo và vấn đề giảm nghèo (%)
Trong vòng 10 năm tới, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn về phát triển đối với Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta coi việc xóa bỏ căn bản tình trạng đói nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia vào năm 2010 như một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2001-2010.
Tính cấp thiết của công cuộc giảm nghèo càng được thể hiện sâu sắc vì Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, chênh lệch giàu nghèo đang có chiều hướng gia tăng và nguy cơ tái nghèo còn lớn, nhiệm vụ tiến kịp các nước phát triển hơn là đầy thách thức ngay khi tình trạng đói nghèo đang được khắc phục, mức tụt hậu về thu nhập, dẫn tới nguy cơ chênh lệch về kết cấu hạ tầng hạn chế việc giải quyết thành công công cuộc phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo.
Mặc dù đã có những thành tựu giảm nghèo đầy ấn tượng trong những năm 90, nhưng Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế
giới. Trên 70% dân số sống trong vùng nông thôn có thu nhập bình quân đầu người dưới 500 USD. Trong khi tình trạng đói nghèo vẫn là một thách thức đối với Việt Nam, thì vấn đề chênh lệch giàu nghèo lại có chiều hướng gia tăng trong phạm vi cả nước, giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa các tỉnh và địa phương trong cả nước. Đây là một thách thức mới cho quá trình phát triển bền vững mang tính nhân văn ở Việt Nam.
Tình trạng nghèo sẽ liên quan đến nhiều chỉ số khác như chỉ số HDI, HPI liên quan đến sự phát triển con người được thể hiện ở sự chênh lệch về thu nhập. Phát triển con người được hiểu theo nghĩa rộng và đo lường qua chỉ số phát triển con người cũng thể hiện sự chênh lệch sâu sắc, đặc biệt là giữa các vùng trong cả nước. Ngoài Bà Rịa -Vũng Tàu là tỉnh theo thống kê có thu nhập bình quân đầu người cao nhất do các nguồn thu từ khai thác dầu mỏ, các tỉnh và thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng đứng ở vị trí đầu bảng về thu nhập bình quân đầu người, đây cũng là các tỉnh có chỉ số phát triển con người cao nhất. Tuy nhiên quan hệ giữa thu nhập và phát triển con người không phải là hoàn toàn chặt chẽ, các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang, Kon Tum, Sơn La, Lào Cai và Bắc Kạn có thứ hạng thấp cả về chỉ tiêu, nhưng Gia Lai và Cao Bằng có chỉ số phát triển con người thấp hơn so với điều kiện thu nhập thực tế.
Chênh lệch trong xếp hạng về thu nhập với xếp hạng về HDI là rất lớn các tỉnh Nam Định, Hà Tĩnh, Ninh Bình là những tỉnh có xếp hạng HDI cao mặc dù xếp hạng về thu nhập lại thấp. Ngược lại An Giang, Tuyên Quang, Bắc Giang và Phú Yên là những tỉnh có điều kiện tốt thu nhập chưa được tận dụng để thúc đẩy thành quả về phát triển con người.
2.3.5. Đánh giá sự phát triển con người Việt Nam qua các chỉ số HDI
Theo đánh giá chung, HDI của Việt Nam đã được cải thiện từ mức dưới 0,69 lên khoảng gần 1%, như vậy sự phát triển con người đã có một bước tiến
đáng kể, đáng lưu ý mức tăng HDI là kết quả của sự gia tăng ở tất cả các chỉ số cấu thành : GDP bình quân đầu người (theo USD PPP), tuổi thọ và trình độ giáo dục qua đó phản ánh nỗ lực của Việt Nam nhằm phát triển toàn diện cuộc sống của người dân.
Các chỉ số HDI của Việt Nam đều cải thiện đáng kể trong những năm vừa qua, đáng chú ý là mọi chỉ số cấu thành của HPI và HDI đều được cải thiện, cho tháy sự nghiệp phát triển con người được đẩy mạnh trên mọi khía cạnh. Nói cách khác, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy sự nghiệp phát triển con người một cách toàn diện. Các dịch vụ cơ bản như dịch vụ y tế đã dễ tiếp cận hơn, qua đó góp phần nâng cao tuỏi thọ và chất lượng cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong giai đoạn này cũng tạo điều kiện cho xóa đói giảm ngèo, nâng cao bình đẳng giới góp phần nhiều hơn vào cải thiện đời sống người dân .
Ở tất cả các vùng, mọi khí cạnh của HDI, HPI và GDI cũng đều được cải thiện, hơn nữa những chuyển biến và xu hướng phát triển con người ở cấp độ quốc gia cũng được thể hiện ở tất cả các vùng. Tỉ lệ tăng trưởng GDP của các vùng là khác nhau, ít nhiều cho thấy sự bất bình đẳng giữa các vùng trong phân phối thu nhập, trong khi đó quan hệ giữa tốc độ tăng HDI và mức giảm HPI chưa rõ ràng. Đồng thời những vùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, lại thường có tốc độ HPI chậm hơn so với mức tăng truởng GDP.
Sự bất bình đẳng giới được cải thiện, thể hiện qua mức tăng chỉ số GDI ở tất cả các tỉnh, chênh lệch tuổi thọ giữa nam và nữ cũng đã được thu hẹp, tỉ lệ đi học của nam và nữ ở mọi cấp giáo dục cũng ít chênh lệch hơn, cuối cùng tỉ lệ đại biểu quốc hội nữ đã tăng. Tuy nhiên xét một cách tuyệt đối, phụ nữ vẫn còn ít được tham gia vào các hoạt động chính trị, bên cạnh đó bất bình đẳng giới trong phân phối thu nhập còn tương đối trầm trọng .
Tóm lại chỉ số HDI có vai trò rất quan trọng, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt trong thời nền kinh tế có nhiều biến chuyển như hiện nay thì chỉ số lại càng đuợc quan tâm hơn nữa.
2.3.6. Thu nhập bình quân đầu người (nghìn VNĐ)
Trong những năm qua, công cuộc Đổi mới của Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Trong hơn chục năm gần đây nhờ duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá, đời sống vật chất và tinh thần của phần lớn dân cư đã từng bước được ổn địnhvà cải thiện, GDP bình quân đầu người tăng mỗi năm khoảng 7-8%.
Mức thu nhập bình quân đầu người có sự phân hóa theo các vùng lãnh thổ và theo các nhóm thu nhập, ở BTB, TB, ĐB và DHNTB, GDP theo đầu người thấp hơn mức trung bình của cả nước. Mức thu nhập bình quân cao nhất là ở ĐNB, khoảng cách chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao và nhóm có thu nhập thấp chênh lệch nhau tới gần 8 lần.
Do sự phát triển của nền kinh tế chưa thật vững chắc, sức cạnh tranh thấp, Việt Nam vẫn còn là một trong tốp quốc gia có thu nhập thấp trên thế giới. Ở Việt Nam chỉ tiêu thu nhập được coi là quan trọng nhất trong việc đánh giá tình trạng đói nghèo và hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo của nhà nước, thu nhập thường được tính bằng tiền.
Tuy nhiên, trong điều kiện lạm phát, nền kinh tế bị suy giảm dẫn tới sự chênh lệch giữa các vùng, thì có thể dùng hình thức hiện vật phổ biến truyền thống. Số hộ đói nghèo có thể dao động do sự biến đổi kinh tế hay thiên tai gây ra, chính vì vậy nhà nước đã có nhiều chính sách giúp cho người dân giảm nghèo và tăng thu nhập. Trong cơ cấu thu nhập cũng có sự chênh lệch giữa nam và nữ ; nam có thu nhập cao hơn nhưng nữ lại có khả năng tích lũy
cao hơn, ngoài ra thu nhập còn có chênh lệch giữa các tỉnh, đặc biệt là giữa các tỉnh miền núi và tỉnh đồng bằng thành thị và nông thôn.
Theo dự báo của UNDP, kế hoạch phát triển KTXH giai đoạn 2006 – 2010, thì mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển KTXH của Việt Nam là “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất văn hóa, tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”.
Mục tiêu đến năm 2010 là: GDP năm 2010 bằng 2,1 lần so với năm 2000, tức là tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm từ 7,5 – 8 % trong giai đoạn 2006
– 2010 và thu nhập bình quân theo đầu người theo giá hiện hành đạt 1.050 –
1.100 USD. Nước ta sớm thoát khỏi danh sách các nước kém phát triển. Tăng trưởng kim nghạch xuất khẩu hàng năm đạt trung bình 16%. Kiểm soát tốc độ tăng dân số ở mức 1,14%/năm.
Giảm tỉ lệ nghèo xuống còn 10 – 11%.
Hoàn thành phổ cập giáo dục THCS ở tất cả các tỉnh, thành. Giảm tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn 20%.
Đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hy vọng lúc đó thu nhập của người dân sẽ được cải thiện, để Việt Nam của chúng ta sẽ có một bức tranh sáng sủa hơn trong con mắt bạn bè quốc tế.
2.3.7. Tỉ lệ người lớn biết chữ (%)
Theo quan niệm chung, tỉ lệ người lớn biết chữ là phần trăm số người từ 15 tuổi trở lên, biết đọc và viết, nhưng phải hiểu được một câu ngắn, đơn giản về cuộc sống hàng ngày của họ. Nếu tính tỉ lệ người biết chữ là những nguời biết đọc biết viết, thì vẫn chưa được gọi là giáo dục phát triển, mà hiện nay người biết chữ là phải tính theo trình độ, cấp học. Hoạt động giáo dục hiện nay được mở ra ở mọi cấp học, mọi vùng dưới nhiều hình thức, với mục tiêu vừa xóa nạn mù chữ, vừa nâng cao trình độ văn hóa cho đông đảo người dân.
Ngay cả trong những năm chiến tranh ác liệt nhất, nền giáo dục nước nhà vẫn được duy trì ở mọi cấp; trong thời kì đổi mới sự phát triển về lượng trong giáo dục, đuợc thể hiện một cách khá rõ nét, số lớp học và số học sinh ở các cấp học phổ thông tiếp tục tăng. Hai cấp học có học sinh tăng nhanh là THCS và THPT .
Sự phát triển về lượng của giáo dục phổ thông được trải trên một diện rộng ở tất cả các vùng, miền các tỉnh miền núi phía Bắc và TN, nơi tập trung sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, hay một số tỉnh ở miền ĐNB và ĐBSCL vốn có mức độ giáo dục chưa cao, đều đạt tốc độ phát triển nhanh, thậm chí nhanh hơn một số tỉnh có mặt bằng xuất phát tốt hơn trong lĩnh vực này.
Trong quá trình đổi mới trình độ người biết chữ (ở trình độ cao) là cần thiết hơn lúc nào hết, tuy nhiên để có được tỉ lệ người biết chữ ở mức độ cao, thì phải giảm tỉ lệ người mù chữ và người chỉ biết đọc, biết viết. Hiện nay các hình thức giáo dục, đào tạo mới được đa dạng hóa và định hình, trước đổi mới giáo dục đào tạo chỉ là một kênh là các trường quốc lập và hầu như chỉ có hình thức dạy học trên lớp. Hiện nay hàng loạt các kênh mới và hình thức mới đã mở ra đó là các trường dân lập bán công là hình thức giáo dục đào tạo từ xa qua hệ thống phát thanh truyền hình.
Dưới tác động của chính sách đổi mới và mở cửa số người học ngoại ngữ và tin học tăng lên rất nhanh, nhu cầu biết ngoại ngữ và sử dụng máy vi tính tăng vọt do các cơ hội làm việc, tiếp cận tri thức và yêu cầu giao tiếp phụ thuộc ngày càng nhiều vào những kĩ năng này, nhất là ở những đô thị lớn.
Chỉ tiêu giáo dục là phần được ưu tiên trong chi tiêu ngân sách Nhà nước. Vào thập niên 90, tuy kinh tế còn khó khăn nhà nước đã phải cắt giảm tổng chi ngân sách, song phần chi cho giáo dục vẫn tăng. Ngân sách giáo dục tăng gấp 10 lần trong giai đoạn 1990 – 1997 từ 1.055 tỉ đồng lên 10.081 tỉ đồng tính theo giá trị thực tế khoản chi này tăng lên 140%. Trong cơ cấu chi giáo dục, phần được ưu tiên là chi cho cấp tiểu học, lựa chọn này xuất phát từ cách đặt vấn đề công bằng xã hội, trẻ em thuộc các gia đình nghèo cần được hỗ trợ để có thể tiếp cận rộng rãi hơn đến giáo dục cơ sở. Nếu Nhà nước không hỗ trợ kinh phí cho cấp này thì nhiều trẻ em nghèo sẽ không có cơ hội đến trường.
Thu nhập tăng và đời sống được cải thiện cũng tạo điều kiện cho người dân, tham gia xây dựng trường học, mua sắm các thiết bị dạy và học. Tuy nhiên những kết quả tích cực trên vẫn chưa dịch chuyển được chất lượng giáo dục, cơ cấu đào tạo để đảm bảo phát triển nguồn nhân lực là khâu đột phá có tính quyết định đối với tương lai của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức.
2.3.8. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam (năm)
Sức khỏe là vốn qu ý và là một yếu tố quan trọng đảm bảo hạnh phúc cho mỗi con người, sức khỏe của toàn dân là điều kiện cần thiết, để thực hiện mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, là tương lai của mỗi dân tộc. Để đánh giá tình trạng sức khỏe và mức độ đảm bảo y tế cho dân cư của một quốc gia, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu, như tỉ lệ người chết, tuổi thọ bình quân, tình trạng dinh dưỡng , tỉ lệ người có bệnh, số bác sỹ y tá trên 1 vạn dân.
Dân số nước ta trẻ. Năm 2006, tỉ lệ trẻ em từ 14 tuổi trở xuống là 26,3%, ở Nhật Bản, tỉ lệ này chỉ có 15%. Như vậy, nếu có khoảng 86 triệu dân như Việt Nam thì Nhật Bản chỉ có 12,9 triệu trẻ em, còn nước ta có hơn 21,2 triệu. Ngay cả khi kinh tế Việt Nam và Nhật Bản như nhau thì bài toán nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em ở nước ta cũng nặng hơn Nhật Bản gần 2 lần.
Thực tế nói trên cho thấy, Việt Nam không chỉ đổi mới nhanh chóng về KTXH mà còn đang đổi mới nhanh chóng các thế hệ dân số. Do đó phải tính đến yếu tố: tỉ lệ trẻ em giảm, tỉ lệ người cao tuổi tăng trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KTXH. Đặc biệt là kế hoạch phát triển giáo dục, nhất là bậc TH và THCS, cần chú ý đến yếu tố tỉ lệ trẻ em giảm nhanh. Cần chú trọng nghiên cứu hoạch định chính sách xã hội đối với người cao tuổi, tận dụng cơ hội "cơ cấu dân số vàng" tỉ lệ người trong độ tuổi lao động gấp 2 lần trong số dân ngoài độ tuổi lao động để phát triển kinh tế.
Có dấu hiệu nghiêm trọng về mất cân đối giới tính thể hiện thông qua chỉ tiêu "tỉ số giới tính", tức là "số nam tương ứng với 100 nữ". Theo tổng điều tra dân số năm 1979, tỉ số giới tính ở nước ta là 94,7 (có sự mất cân đối giới tính một cách đáng kể, theo hướng nam ít hơn nữ) nhưng đến năm 1999, "tỉ số giới tính" đó tăng lên 96,7, nghĩa là nhìn tổng thể, số lượng nam nữ đó gần cân bằng.
Ở Việt Nam, do những thành tựu về phát triển kinh tế, nên các chương trình quốc gia về xã hội đã được triển khai rộng rãi và có tác động sâu sắc tới cả nông thôn và thành thị. Hầu hết các chỉ số về sức khỏe của người dân đã được cải thiện, chính phủ đã có những chủ chương cơ bản và lâu dài là phát triển y tế, đặc biệt là dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Tuổi thọ trung bình của cả nước đã đạt mức cao đáng kể so với điều kiện kinh tế và mức sống hiện tại, xu hướng tăng tuổi thọ vẫn được tiếp tục diễn ra từ 63,0 tuổi với nam, 67,5 tuổi với nữ (năm 1989) tăng lên tương ứng
là 65,0 và 70,5 vào năm 1999 và hiện nay đã đạt 70 và 73 cao hơn bình quân khu vực Đông Nam Á. Đây là một dấu hiệu tích cực với người dân Việt Nam, để đạt được những thành tựu đó, là một quá trình phấn đấu lâu dài, mở rộng mạng lưới y tế, chương trình tiêm chủng mở rộng, nâng cao trình độ văn hóa, con người có nhiều lựa chọn để bảo vệ sức khỏe của mình một cách tốt nhất
Một hiện tượng dân số đang diễn ra đó là tuổi thọ trung bình của nam thấp hơn của nữ. Trong giai đoạn 1999 – 2004 , tuổi thọ trung bình của nam được tăng lên ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt là Quảng Ngãi và Cao Bằng , đều tăng lên 5,2 tuổi, nhưng ở Nam Định và Thái Bình lại giảm nhiều lần lượt là 2,8 tuổi và 2,5 tuổi. Tuy nhiên tuổi thọ trung bình của nữ giới tăng chậm hơn, thậm chí cũng giảm ở một số tỉnh, kết quả là, chênh lệch tuổi thọ trung bình ở hầu hết các tỉnh vào năm 2004 đã được thu hẹp. Mức thu hẹp lớn nhất là ở các tỉnh Nghệ An và Bến Tre, với mức chênh lệch 4,8 và 4 tuổi .
Cùng với tuổi thọ của con người ngày càng cao,và đã tìm ra những phương thuốc mới có thể chữa trị nhũng căn bệnh mà trước đây không thể chữa, thì hiện nay lại xuất hiện thêm một số căn bệnh nan y như HIV, ung thư và một số căn bệnh về đường hô hấp theo mùa.... cũng làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc tăng giảm tuổi thọ của người dân.
2.3.9. Tỉ lệ dân thành thị / nông thôn (%)
Nhận định chung là tỉ lệ dân thành thị Việt Nam hiện còn thấp nhưng sẽ tăng mạnh trong tương lai. Năm 2005, tỉ lệ dân đô thị của thế giới là 47%. Nếu tính theo các châu, thì châu Âu có tỉ lệ dân đô thị là 74%, châu Á : 38%, châu Phi thấp nhất cũng đạt 36%. Trong khi đó, theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2006, tỉ lệ dân đô thị ở nước ta mới chỉ đạt 27,12%. Ngay vùng ĐBSH có hai thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng, nhưng tỉ lệ dân đô thị cũng chỉ có 23,8%. Nhiều tỉnh, tỉ lệ dân đô thị chưa đến 10%, như Thái Bình: 7,2%, Hà Nam: 9,6%,... Như vậy, về đại thể, Việt Nam vẫn là mảnh đất "tam nông":