Bản Đồ Tình Hình Nghiên Cứu Ve Giáp Ở Việt Nam (1967 - Nay)


1.2. Nghiên cứu Ve giáp tại Việt Nam


Hình 1.2. Bản đồ tình hình nghiên cứu Ve giáp ở Việt Nam (1967 - nay)

(Nguồn: The oribatid mite fauna (Acari: Oribatida) of Vietnam - Systematics,

Zoogeograpph and Formation, Vũ Quang Mạnh, 2015)


Kí hiệu: Mẫu định lượng, Mẫu định lượng tính từ sau 2015 đến nay Mẫu định tính

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Việt Nam là đất nước có kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, ¾ diện tích là đồi núi, địa hình đa dạng tạo nên sự phân hoá của các kiểu điều kiện tự nhiên, đồng thời lại là đất nước ven biển, vì vậy khí hậu thể hiện rõ tính chất nóng ẩm, mưa nhiều. Thiên nhiên nước ta có sự phân hoá từ Đông sang Tây, Bắc xuống Nam và từ thấp đến cao [7]. Tính chất của khu hệ động vật nước ta thuộc vùng Ấn Độ Mã Lai, cụ thể là thuộc phân vùng Đông Dương (Indo-China) [143], [147], theo lý thuyết ở phân vùng này sẽ thể hiện rõ nét nhất tính chất phong phú và đa dạng của vùng Ấn Độ Mã Lai, mang tính chất nhiệt đới hoàn toàn, hệ thực vật giới phát triển cao sẽ kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của hệ động vật giới [5]. Với thực tại tính chất thiên nhiên như vậy, có thể coi Việt Nam là một mảnh đất “màu mỡ” cho các nghiên cứu động vật học nói chung, theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, Việt Nam là một trong những nước đứng đầu Đông Nam Châu Á với những nghiên cứu về đối tương này. Với một đối tượng có kích thước nhỏ như Ve giáp (Acari: Oribatida) đồng thời lại có mức độ đa dạng sinh học cao trong quần xã động vật Arthropoda ở đất, thì đây là một hướng nghiên cứu mới được quan tâm từ nửa cuối thế kỷ 20 ở Việt Nam [144]. Có thể khái quát quá trình nghiên cứu khu hệ Ve giáp (Acari: Oribatida) và nhóm Chân khớp (Arthropoda) ở hệ sinh thái đất Việt Nam, theo 3 giai đoạn chính như sau:

1.2.1. Giai đoạn 1967 - 1986

Ve giáp Acari Oribatida ở hệ sinh thái đất cao nguyên Mộc Châu, tỉnh Sơn La - 4

Năm 1967 có thể được coi là năm khai sinh ra hướng nghiên cứu động vật đất Oribatida của Việt Nam. Lần đầu tiên hai chuyên gia nghiên cứu thế giới người Hungari, đã xác định được 33 loài Oribatida ở hệ sinh thái đất Vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Tu Lý (Hòa Bình) và Sa Pa (Lào Cai) của Việt Nam. Tất cả 33 loài ghi nhận được đều là mới cho khu hệ động vật Việt Nam, trong đó có 29 loài và 4 giống là mới cho khoa học. Vào thời điểm đó chưa có chuyên gia Việt Nam nghiên cứu về nhóm này [63].


Bảy năm sau mới tiếp tục có một công trình của tác giả nước ngoài nghiên cứu về Ve giáp Việt Nam là Rajski & Szudrowicz (1974) mô tả loài mới Dolicheremaeus bartkei sp. n. ở phía Bắc Việt Nam [134].

Năm 1980, luận văn cấp I Sau đại học của Vũ Quang Mạnh, đã được bảo vệ ở trường ĐHSP I Hà Nội, về “Nghiên cứu quần xã Ve bét (Arachnida: Acari) và Bọ nhảy (Insecta: Collembola) ở đất một số sinh cảnh ở Từ Liêm (Hà Nội) và ở An Khê (Tây Nguyên)”. Lần đầu tiên (1982) các tác giả Việt Nam, Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Trí Tiến đã công bố kết quả nghiên cứu về thành phần nhóm phân loại và đặc điểm phân bố của các nhóm bét (Acarina: Arachnida) và bọ nhảy (Collembola: Insecta) ở Tây Nguyên, miền Trung Việt Nam [18].

Nghiên cứu của Golosova (1983, 1984) ở rừng nhiệt đới phía Bắc của An Khê mô tả thêm 2 loài mới Mixacarus follifer Golosova, sp.n.; Cosmobates nobilis Golosova, sp.n. [104].

Bước đầu, đã có một số công trình khoa học của chuyên gia Việt Nam được công bố cộng tác với các tác giả quốc tế, như công trình của Hoàng Kim Hối và cs. (1983), Vu, Jeleva & Zonev (1985) [146], Jeleva & Vu (1987) công bố 7 loài Ve giáp mới ở phía Bắc Việt Nam [106].

Năm 1986, tại khoa Sinh học của trường đại học Tổng hợp Sofia, thuộc nước Cộng hòa nhân dân Bungari. Lần đầu tiên, Vũ Quang Mạnh đã ghi nhận được 73 loài Ve giáp ở miền Bắc Việt Nam, bao gồm 39 loài mới cho khu hệ động vật Việt Nam. Tác giả đã mô tả 7 loài Ve giáp mới cho khoa học. Khu hệ Ve giáp tuy mới được khảo sát sơ bộ ở miền Bắc Việt Nam, nhưng cho thấy nó rất đa dạng và phong phú, và đây là nhóm có nhiều triển vọng trong nghiên cứu. Tuy nhiên, vào thời điểm đó lần đầu tiên mới có một chuyên gia Việt Nam nghiên cứu về Oribatida [177].

1.2.2. Giai đoạn 1987 - 2007

Giai đoạn này bước đầu đã hình thành, định hình hướng nhóm nghiên cứu về khu hệ và sinh thái nhóm Arthropoda ở hệ sinh thái đất, và ngày càng có thêm nhiều công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam.

Năm 1987, Mahunka, khảo sát về khu hệ Ve giáp ở Việt Nam, ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Thọ Xuân, Sầm Sơn (Thanh Hoá), Tân Lạc (Hoà Bình). Kết quả thu

18


thập mẫu đất đã xác định có 12 loài Ve giáp [114]. Năm 1988, tác giả công bố phần hai về khu hệ Ve giáp Việt Nam, với 17 loài Ve giáp, trong đó có 15 loài mới cho khoa học và 3 giống mới [115]. Năm 1989 Mahunka tiếp tục có những khảo sát Ve giáp tại Việt Nam, kết quả công bố 4 loài mới cho khoa học thuộc họ Galumnidae Jacot, 1925 [116].

Năm 1989, Niedbala đã mô tả 6 loài mới của siêu họ Ve giáp Phthiracaroidea, trong đó có 5/6 loài mới là của Việt Nam [124]. Đến năm 1990, Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật đã thực hiện nghiên cứu về Ve giáp ở đất rừng đồi núi Đông Bắc của BắcViệt Nam [19]. Cũng trong năm này, Vũ Quang Mạnh tổng kết đưa ra danh sách 117 loài Oribatida đã biết ở Việt Nam, rút ra kết luận về thành phần, đặc điểm phân bố và số lượng Chân khớp bé, từ đó nêu lên một số quy luật sinh thái quyết định sự hình thành cấu trúc của quần xã Ve giáp ở đất [10].

Năm 1991, Krivolustky và cộng sự đã có nghiên cứu ở các hệ thống nông nghiệp và rừng nhiệt đới phía Bắc của miền Nam Việt Nam “trong khuôn khổ hợp tác nghiên cứu giữa Việt Nam và Liên Xô” thời bấy giờ. Đây là nghiên cứu rất quan trọng về khu hệ Ve giáp và nhóm giun sán ký sinh ở động vật, cho phép bổ sung thêm rất nhiều hiểu biết về Ve giáp và sán Anoplocephalidae ở Việt Nam [111]. Cùng thời điểm này Pavlichenko đã phát hiện thêm một loài mới của giống Ceratozetoid ở Việt Nam [132].

Năm 1993, Stary đã có nghiên cứu ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc), kết quả công bố hai loài mới thuộc giống Euphthiracarus, đồng thời ghi nhận 6 loài của siêu họ Euphthiracaroidea [141]. Trong năm này, nghiên cứu của tác giả trong nước có Vũ Quang Mạnh mô tả thêm một số loài mới cho khu hệ Oribatida Việt Nam ở vùng đồi núi Tây Bắc Việt Nam. Tuy nhiên các nghiên cứu tại vùng núi cao phía Bắc của Việt Nam đến thời điểm đó vẫn còn hạn chế [11].

Đặc điểm phân bố, mật độ và thành phần chân khớp bé (Microarthropoda: Oribatei, Acarina khác và Collembola) ở hệ sinh thái đất ven biển Việt Nam, cũng đã được tác giả Vũ Quang Mạnh quan tâm nghiên cứu. Các nghiên cứu được tiến hành ở vùng ven biển Yên Hưng (Quảng Ninh), đảo Cát Bà (Hải Phòng), tác giả Vũ Quang Mạnh đã mô tả danh sách 28 loài Oribatida, cũng như phân tích mối liên hệ

19


giữa Oribatida vùng ven biển và vùng đảo so với Oribatida sống trong đất liền [12], [13], [24]. Đến năm 1995, Vũ Quang Mạnh và Vương Thị Hoà, đưa ra danh sách 146 loài và phân loài Oribatida ở Việt Nam cùng với đặc điểm phân bố của chúng [20].

Năm 1996, Vũ Quang Mạnh và cs thực hiện các nghiên cứu trên quần xã động vật đất chân khớp bé (Microarthropoda) và động vật đất cỡ trung bình (Mesofauna) liên quan đến việc sử dụng thuốc trừ cỏ cho lúa, thấy rằng có sự thay đổi thành phần các loài khác nhau cũng như sự thay đổi tăng lên và giảm xuống của mật độ nhóm chân khớp bé nói chung, và một số loài nhất định ở sinh cảnh có thuốc diệt cỏ Sofit và không có thuốc diệt cỏ [25].

Giai đoạn 1997 – 1998, có nghiên cứu của Krivolutsky và cộng sự đã tổng kết đến thời điểm đó khu hệ Ve giáp Việt Nam có 167 loài và phân loài, đến công trình nghiên cứu này thêm 146 loài cho khu hệ Ve giáp Việt Nam [112]. Cũng trong năm này, chuyên khảo của Krivolutsky về nghiên cứu, đặc điểm địa động vật của khu hệ Ve giáp Việt Nam đã phát hiện khu hệ Ve giápvùng núi cao Phanxipăng có 7 họ, là đại diện đặc trưng của miền Bắc Việt Nam với đặc trưng của hệ động vật mang tính Ấn Độ - Mã Lai, với yếu tố khí hậu ôn đới [178]. Năm 1998, Krivolutsky nghiên cứu về ve giáp họ Nothridea ở khu vực đỉnh núi Fansipan (Lào Cai) và Ba Vì (Hà Tây cũ) phía Bắc Việt Nam, kết quả phát hiện 3 loài mới của giống Nothrus [110].

Các nghiên cứu về mật độ, đa dạng thành phần loài và sự phân bố của Ve giáp tiếp tục được mở rộng về địa bàn, quy mô và nội dung nghiên cứu. Hàng năm đều có công bố các dẫn liệu mới cho khu hệ Ve giáp Việt Nam. Có thể kể đến một số các công trình điển hình như: nghiên cứu về Ve giáp ở hệ sinh thái rừng Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Vũ Quang Mạnh và cs (2000, 2002) nhận định có sự thay đổi đặc điểm đa dạng thành phần loài của quần xã Ve giáp theo chiều thẳng đứng, điều này có thể được xem xét và đánh giá như một đặc điểm sinh học, chỉ thị quá trình diễn thế của rừng Tam Đảo nói riêng và của Việt Nam nói chung [21].

Nghiên cứu của Phan Thị Huyền và cộng sự năm 2004, đã xác định được 25 loài ve giáp thuộc 12 họ trong cấu trúc quần xã Ve bét ở hệ sinh thái vùng rừng Vườn Quốc gia Ba Vì, đồng thời xác định được mối liên hệ giữa đai cao khí hậu ảnh hưởng tới cấu trúc quần xã ve giáp [6]. Trong thời gian này, tác giả Vũ Quang

20


Mạnh đã giới thiệu về họ Ve giáp Otocepheidae Balogh, 1961 của khu hệ động vật Việt Nam [15].

Các kết quả phân tích, nghiên cứu của Vũ Quang Mạnh và Nguyễn Xuân Lâm (2005), cũng cho thấy khu hệ Oribatida Việt Nam bao gồm 158 loài, thuộc 46 họ, ở các đai cao khí hậu khác nhau, khu hệ này mang yếu tố Ấn Độ - Mã Lai và thuộc vùng địa động vật Đông Phương. Tuy nhiên khu hệ Oribatida Việt Nam có tính chất chuyên biệt cao, có tới 76 loài chỉ mới phát hiện được ở Việt Nam. Đồng thời, cũng có một số loài mang đặc điểm chung của khu hệ Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin, Nhật Bản và các đảo Nam Thái Bình Dương. Tại một số khu hệ Oribatida vùng núi phía Bắc mang yếu tố động vật Cổ Bắc [22].

Năm 2006, Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh công bố 30 loài Ve giáp được phát hiện ở Vườn quốc gia Xuân Sơn - Phú Thọ. Vũ Quang Mạnh và cs tiếp tục nghiên cứu và giới thiệu họ Oppidae Grandjean, 1954; phân họ Oppiinae Grandjean, 1951 và Mulltioppiinae Balogh, 1983, các phân họ Pulchroppiinae, Oppiellinae, Mystrppiinae, Brachyoppiinae, Arcoppiinae, ở Việt Nam [23], [26].

Năm 2007, Vũ Quang Mạnh và Lưu Thanh Ngọc, đã tổng kết sơ bộ và giới thiệu 32 loài Ve giáp ở vùng Đồng bằng Sông Hồng - Việt Nam; công bố 3 loài thuộc giống Ve giáp Perxylobates Hammer 1972, hiện có ở Việt Nam [27]. Cũng trong thời gian này, tác giả Vũ Quang Mạnh đã trình bày phương pháp dùng biểu đồ lưới trong nghiên cứu cấu trúc quần xã động vật, đánh giá mức độ tương đồng về thành phần loài giữa các khu vực địa lý khác nhau [16]. Tác giả Vũ Quang Mạnh (2007), đã công bố chuyên khảo, Động vật chí Việt Nam, Tập 21: Bộ Ve giáp (Acari: Oribatida). Trong đó giới thiệu 150 loài Oribatida đã biết vào thời điểm đó ở Việt Nam, đồng thời ghi nhận thêm 44 loài Oribatida mới cho khu hệ Ve giáp Việt Nam [17].

Trong giai đoạn này, ngoài các nghiên cứu về khu hệ Ve giáp nêu trên, các nghiên cứu về sinh thái động vật đất và sinh học chỉ thị, trên cơ sở khảo sát cấu trúc quần xã động vật Oribatida về đa dạng thành phần loài, mật độ và đặc điểm phân bố, liên quan đến sự thay đổi điều kiện tự nhiên môi trường cũng đã được triển khai nghiên cứu, thể hiện qua các kết quả nghiên cứu cấu trúc quần xã động vật chân

21


khớp và giun đất, chỉ thị cho kiểu thảm phủ thực vật, cho loại đất, cho nhóm loài địa phương và nhập nội, chỉ thị cho mức độ thay đổi của cảnh quan, cho diễn thế thảm thực vật.

1.2.3. Giai đoạn từ 2008 tới nay

Vùng nghiên cứu Ve giáp được mở rộng đến các vùng đồi núi Đông Bắc, các VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Nội), Xuân Sơn (Phú Thọ) và một số địa điểm ở miền Trung và Nam Việt Nam. Một trong những kết quả nghiên cứu đáng kể nhất là 2 công trình luận án tiến sĩ của Đào Duy Trinh, nghiên cứu Oribatida ở VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ (2011) [38], và của Nguyễn Hải Tiến, nghiên cứu Oribatida ở VQG Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình (2012) [35].

Các nghiên cứu trên cơ sở khảo sát cấu trúc quần xã động vật Ve giáp về đa dạng thành phần loài, mật độ và đặc điểm phân bố, liên quan đến sự thay đổi điều kiện tự nhiên môi trường cũng đã được triển khai mạnh mẽ. Một số các nghiên cứu điển hình như: Nghiên cứu của Vũ Quang Mạnh và cs (2008) về cấu trúc quần xã động vật đất - yếu tố chỉ thị sự phát triển bền vững của hệ sinh thái đất, đã nhận thấy cấu trúc quần xã Microarthropoda và Mesofauna ở hệ sinh thái đất thay đổi theo đặc điểm thảm thực vật, cây trồng, và theo đặc điểm môi trường đất [28]. Nhóm Ve giáp chiếm ưu thế trong cấu trúc số lượng của quần xã Microarthropoda ở 3 trong 4 loại đất nghiên cứu, là đất phù sa cổ, đất phù sa Sông Hồng, và đất đỏ nâu trong nền đất đá vôi; tương ứng chiếm 40-49% tổng số lượng. Mật độ quần xã nhóm Ve giáp xác định được đất phù sa Sông Hồng cao nhất; rồi giảm dần từ đất phù sa cổ, đến đất đỏ nâu trên nền đá vôi; và thấp nhất ở đất phù sa sông Thái Bình, với 6311 cá thể/ m2mặt đất. Qua đó có thể khảo sát Oribatida, như một yếu tố chỉ thị sinhhọc, đánh giá sự thay đổi và quản lý bền vững hệ sinh thái đất Việt Nam [32].

Nghiên cứu của Đào Duy Trinh và cs (2010) về cấu trúc quần xã Oribatid ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ), đã công bố danh sách 103 loài thuộc 48 giống, 28 họ. Số loài trong các sinh cảnh sống khác nhau dao động từ 22 loài tới 90 loài. Số loài tại ba độ cao dao động từ 62 loài ở độ cao 300-600m đến 55 loài ở độ cao 600-1000m và giảm xuống 47 loài ở độ cao 1.000-1.600m. Nghiên cứu cũng xác định đặc điểm địa động vật khu hệ Oribatida VQG Xuân Sơn thể hiện rõ yếu tố

22


Ấn Độ - Mã Lai (chiếm 71,77%), ngoài ra còn có sự tham gia của các yếu tố khác: Phân bố rộng (11,77%), Toàn Bắc (10,59%), và Tân nhiệt đới (5,88%) [40].

Nghiên cứu của Nguyễn Hải Tiến và cs (2012) về khu hệ động vật Oribatida của VQG Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình đã lần đầu tiên được xác định, ghi nhận 106 loài và 01 phân loài thuộc 73 giống, 40 họ. Kết quả nghiên cứu đã phát hiện 78 loài mới cho khu hệ Ve giáp Việt Nam. Nghiên cứu cũng đã xác định độ phong phú thành phần loài, mật độ và đặc điểm phân bố của cấu trúc quần xã Ve giáp Oribatida có liên quan rõ rệt với biến đổi khí hậu mùa, kiểu sinh cảnh và chiều sâu thẳng đứng trong hệ sinh thái đất tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng [30], [36], [37].

Nghiên cứu của Vũ Quang Mạnh, Ngô Như Hải (2012) về cấu trúc quần xã Ve giáp ở hệ sinh thái đất vùng núi Chè, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã xác định được 38 loài Ve giáp (Acari: Oribatida), thuộc 32 giống và 21 họ. Các tác giả đã ghi nhận được đa dạng thành phần loài Oribatida giảm dần theo các sinh cảnh bị ảnh hưởng nhân tác, theo biến đổi mùa số loài Oribatida giảm vào mùa mưa và tăng vào mùa khô [29]. Năm 2013, Trần Thị Thu Hương đã tiến hành nghiên cứu về quần xã Chân khớp bé Ve giáp (Microarthropoda: Acari: Oribatida) ở hệ sinh thái đất rừng ngập mặn ven biển và trảng cỏ cây bụi thuộc Vườn Quốc gia Cát Bà và vùng phụ cận, thành phố Hải Phòng, nghiên cứu đã xác định được 34 loài cho khu hệ Ve giáp Cát Bà [4]. Trần Thị Thảo (2014) tiến hành nghiên cứu ở độ cao 100m, tại vườn Quốc gia Cúc Phương, đã xác định được 77 loài, bổ sung thêm 48 loài cho khu hệ Ve giáp Cúc Phương [33]. Trần Bích Thuỷ (2014) khảo sát cấu trúc quần xã ve giáp ở hệ sinh thái đất rừng thông, vùng ven vườn quốc gia Cúc Phương, đã xác định được về đa dạng loài ve giáp có 52 loài thuộc 27 giống và 15 họ, trong đó bổ sung 24 loài mới cho khu hệ ve giáp Việt Nam và 33 loài mới cho khu hệ Ve giáp Cúc Phương [34]. Nguyễn Thị Xuân (2014), điều tra cấu trúc quần xã ve giáp ở hệ sinh thái đất trảng cỏ cây bụi ven vườn quốc gia Cúc Phương, đã xác định 51 loài thuộc 21 giống và 12 họ, bổ sung thêm 21 loài mới cho khu hệ ve giáp Việt Nam [41].

Như vậy tính đến năm 2014, khu hệ Oribatida của Việt Nam đã xác định được 322 loài, trong đó Vũ Quang Mạnh và ctv đã phát hiện 209 loài mới cho khu hệ Vegiáp Việt Nam. Vũ Quang Mạnh và ctv, đã mô tả và công bố quốc tế được 13 loài Ve giáp mới cho khoa học [143], [147].

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2023