Đánh Giá Chung Về Tình Hình Ứng Dụng Ucp 600 Và Isbp 681.

Ngân Hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (maritimebank) quy định về nghiệp vụ này như sau: Ngân Hàng Hàng Hải thực hiện chiết khấu có truy đòi hối phiếu kèm theo các chứng từ L/C dưới hình thức ứng trước cho khách hàng. số tiền ứng trước tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng tối đa không vượt quá 95% giá trị hối phiếu. Khi nhận được số tiền thanh toán từ ngân hàng nước ngoài, Ngân Hàng Hàng Hải thu hồi đủ khoản tiền đã ứng trước cho khách hàng và thu các khoản phí có liên quan, trước khi thanh toán phần còn lại cho khách hàng. Ngân Hàng Hàng Hải thực hiện truy đòi số tiền đã ứng trước, lãi và các chi phí có liên quan trong trường hợp ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán.

(Trích: Dịch vụ thanh toán quốc tế- NHTMCP Hàng Hải Việt Nam)


Vậy bằng việc thương lượng thanh toán bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng thương mại đã giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Điều đó thực sự đóng vai trò không nhỏ trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu phát triển.

Có một câu hỏi được đặt ra là: Ngân hàng có thương lượng thanh toán bộ chứng từ hàng nhập không? Và khi thương lượng bộ chứng từ hàng nhập, quy trình đó như thế nào?

Ngân Hàng HSBC thực hiện quy trình thương lượng bộ chứng từ hàng nhập như sau: Khi doanh nghiệp Việt Nam là bên nhập khẩu, muốn có BCT để đi nhận hàng thì doanh nghiệp phải thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Khi BCT về đến HSBC và sau khi kiểm tra HSBC thấy rằng BCT hoàn toàn phù hợp với thư tín dụng, với UCP 600 và ISBP 681. Khi ấy HSBC sẽ thanh toán cho người xuất khẩu bằng nguồn vốn của mình. Như vậy BCT đã thuộc về HSBC và HSBC là chủ sở hữu của hàng hoá. Nếu doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam muốn có BCT để đi nhận hàng thì phải thanh toán cho HSBC. Trong trường hợp doanh nghiệp không nhận BCT thì HSBC sẽ phát mại lô hàng để thu tiền về.

Trong thực tế hoạt động của mình, cũng có trường hợp HSBC thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu trước khi nhận được BCT. Trong trường hợp này rủi ro hoàn toàn thuộc về HSBC nếu người xuất khẩu không chuyển giao chứng từ thì HSBC cũng không thể đòi tiền của người nhập khẩu Việt Nam. Tuy nhiên trường hợp này rất hiếm khi xảy ra vì HSBC chỉ chấp nhận thanh toán tiền hàng trước cho người nhập khẩu khi người đó có quan hệ thân thiết với HSBC, có uy tín và HSBC thực sự tin tưởng. Hoặc trong trường hợp ngân hàng thông báo ở nước người xuất khẩu là ngân hàng đại lý của HSBC và BCT đã được chuyển đên ngân hàng thông báo và HSBC đã nhận được điện từ phía ngân hàng thông báo là BCT hoàn toàn phù hợp. Khi ấy HSBC sẽ chuyển tiền thanh toán đến phía ngân hàng thông báo trước khi nhận được BCT ngân hàng này chuyển đến.

(Theo HSBC Việt Nam)

Rõ ràng là khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu BCT (mua đứt) như trên, HSBC đã cung cấp một khoản tín dụng cho bên xuất khẩu (bằng việc trả tiền trước). Đối với bộ chứng từ hàng xuất khi mà doanh nghiệp Việt Nam là bên xuất khẩu, khoản tín dụng ấy là vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp của chúng ta. Bởi vì các doanh nghiệp của chúng ta tiềm năng tài chính còn hạn hep, thiếu vốn. Do vậy sẽ giúp các doanh nghiệp luân chuyển vốn nhanh, đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng nhiều.

II. Đánh giá chung về tình hình ứng dụng UCP 600 và ISBP 681.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.


Mặc dù UCP 600 chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 nhưng trước khi UCP 600 có hiệu lực, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều đã chuẩn bị tinh thần làm quen và ứng dụng UCP ngay khi UCP 600 có hiệu lực. Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam (VIBank) đã mở lớp đào tạo cán bộ về UCP mới, hướng dẫn quy trình nghiệp vụ theo bản sửa đổi lần thứ 6 của ICC. Và thực tế là ngay sau khi UCP 600 có hiệu lực, VIBank đã thông báo đến khách hàng của mình là VIBank chính thức áp dụng UCP 600 và phòng dịch vụ khách hàng của VIBank sẵn sàng tư vấn cho khách hàng về bản UCP mới và những điểm doanh nghiệp cần lưu ý khi áp dụng UCP 600. Bên cạnh đó VIBank cũng tổ chức một buổi hội thảo giới thiệu bộ tập quán quốc tế mới (UCP 600) đến các doanh nghiệp. Trong cuộc hội thảo VIBank đã cố gắng giới thiệu một cách ngắn gọn, hàm súc và dễ hiểu nhất về bộ tập quán mới đến doanh nghiêp. Hội thảo của VIB có mặt hơn 200 doanh nghiệp là bạn hàng quen thuộc của VIB diễn ra vào ngày 15/11/2007.

Vận dụng UCP 600 để giải quyết tranh chấp trong thanh toán quốc tế tại một số ngân hàng thương mại - 9

Sau Khi UCP 600 bắt đầu có hiệu lực, NHTMCP Quân Đội (Military Bank) cũng bắt đầu hướng khách hàng sử dụng UCP 600 thay cho UCP 500. Nhiều doanh nghiệp nhập khẩu ban đầu muốn sử dụng UCP 500 vì đã quen thuộc với bản điều lệ này, lại chưa có thời gian để tìm hiểu kỹ về UCP 600 chỉ thấy duy nhất điểm khác biệt là phải thanh toán sớm hơn cho nhà xuất khẩu, tuy nhiên sau khi các TTV tư vấn đều dần dần chuyển sang sử dụng UCP 600. Tính đến tháng 9/2007 hầu như tất cả các thư tín dụng phát hành qua Ngân Hàng Quân Đội đều sử dụng UCP 600. Trong thời gian này, Ngân Hàng Quân Đội vẫn tiếp tục triển khai kế hoạch đào tạo của mình. Tính đến thời điểm tháng 9 năm 2007, Ngân Hàng Quân Đội đã tổ chức được 3 khoá học cho TTV tại Đại Học Ngoại Thương Hà Nội và Học Viện Ngân Hàng, tham gia khoảng 10 buổi hội thảo cùng các ngân hàng nước ngoài, tổ chức đào tạo cho TTV và cán bộ quan hệ khách hàng về UCP 600, ISBP 600, tổ chức nhiều hội thảo UCP 600 cho các doanh nghiệp Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng

Cho đến thời điểm này, khi mà UCP 600 đã chính thức có hiệu lực được gần một năm, hầu hết các ngân hàng thương mại đều đã áp dụng bản quy tắc mới và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng đã bước đầu làm quen được với bản quy tắc mà từ trước đến nay được coi là “khó hiểu” của ICC. Từ tình hình áp dụng UCP 600 của một số ngân hàng thương mại ở trên, ta có thể đưa ra một vài đánh giá chung nhất như sau:

1. Ưu điểm:

- Trước khi UCP 600 có hiệu lực các ngân hàng thương mại đã dành thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, triển khai bồi dưỡng, trang bị kiến thức cho cán bộ về bộ tập quán quốc tế mới (VIBank, MB…). Đồng thời cũng giới thiệu, tư vấn giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu và làm quen để khỏi bỡ ngỡ khi ngân hàng chính thức áp dụng vào hoạt động thanh toán.

- Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều đã nghiên cứu tìm hiểu và ứng dụng bộ tập quán quốc tế mới. Mặc dù bộ tập quán quốc tế mới vẫn còn một số điều khó hiểu và chưa quy định cụ thể song các ngân hàng thương mại đã biết cụ thể hoá trong quy trình nghiệp vụ của mình (UCP chỉ quy định thời gian kiểm tra BCT cho mỗi ngân hàng là 5 ngày làm việc ngân hàng. Tuy nhiên các ngân hàng đã phân chia thời gian ấy cho phù hợp với quy trình nghiệp vụ thực tế của mình: 2 ngày để TTV kiểm tra, thời gian còn lại để KSV kiểm tra (Quy định của Techcombank); 3 ngày cho TTV kiểm tra (NHNo&PTNT)…)

- Một điểm đáng khích lệ ở đây đó là mặc dù UCP600 chưa có quy định cụ thể về ngày tiếp nhận chứng từ, song để tạo điều kiện thuận lợi cho các thanh toán viên trong quá trình kiểm tra, một số ngân hàng thương mại đã quy định về ngày tiếp nhận chứng từ (NHNo&PTNT, Techcombank)

2. Hạn chế:


Mặc dù một số ngân hàng thương mại đã có sự chuẩn bị kỹ càng về nhân lực, nghiệp vụ để phù hợp với những thay đổi của UCP. Tuy nhiên, khi chính thức áp dụng UCP vẫn còn một số hạn chế như sau:

- Do thời gian chuẩn bị bị hạn chế nên mặc dù đã có sự chuẩn bị trước song một số ngân hàng thương mại vẫn chưa kịp có những điều chỉnh quy trình nghiệp vụ của mình theo UCP mới (Ngân Hàng Công Thương Việt Nam Vietinbank…)

- Mặc dù đã tổ chức và mở rất nhiều khoá đào tạo cho nhân viên về UCP600 , tuy nhiên chất lượng đào tạo còn chưa cao, các thanh toán viên vẫn chưa hoàn toàn nắm được bộ tập quán mới để vận dụng nó vào quy trình nghiệp vụ thường ngày của mình.

- Bản thân ISBP681 và UCP600 vẫn còn có một số bất đồng, có thể kể đến ở đây như là Đ21 ISBP681 và Điều 14UCP600. Theo điều 14c UCP600 việc xuất trình một hoặc nhiều bản gốc các chứng từ vận tải theo các điều 19, 20, 21, 22, 23, 24 và 25 phải do người thụ hưởng hoặc người thay mặt thực hiện nhưng không được muộn hơn 21 ngày dương lịch sau ngày giao hàng quy định trong các quy tắc này, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được muộn hơn ngày hết hạn của tín dụng. Nhưng theo điều 21 ISBP681 thì ta có thể hiểu là xuất trình sau 21 ngày dương lịch kể từ ngày giao hàng, nhưng không muộn hơn ngày hết hạn xuất trình. Do vậy, nếu các ngân hàng chỉ quy đinh chung chung rằng: việc kiểm tra tuân thủ UCP600 sẽ rất dễ xảy ra sai sót khi kiểm tra BCT thanh toán vẫn còn sự không tương thích giữa UCP600 .

- Những ngân hàng đã áp dụng UCP mới thì mới chỉ điều chỉnh được quy trình theo UCP 600 ở một số loại thư tín dụng: Tín dụng không huỷ ngang, tín dụng không huỷ ngang có xác nhận. Còn với một số loại thư tín dụng đặc biệt như: Thư tín dụng chuyển nhượng, thư tín dụng giáp lưng…thì chưa cập nhật được những nội dung mới trong quy trình để phù hợp với UCP 600.

III. Một số khó khăn và bất cập khi áp dụng


Mặc dù đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trươc khi áp dụng UCP 600 vào hoạt động thanh toán quốc tế, song các ngân hàng Việt Nam vẫn gặp phải một số khó khăn và bất cập khi áp dụng bản quy tắc mới này của ICC.

1. Bất cập đến từ phía bộ tập quán:


Mặc dù so với UCP500, UCP600 đã hạn chế được một số những bất cập nhất định (Quy định cụ thể hơn trách nhiệm của hai bên mua bán, của ngân hàng, tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ rõ ràng hơn…), tuy nhiên UCP600 và cùng với nó là ISBP681 vẫn không phải là hoàn hảo, và vẫn còn một số điểm mà 2 văn bản mới này chưa giải quyết được.

♣ Điều 7 (b) UCP600


Điều 7 (b) UCP600 chỉ ra thời điểm cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành có hiệu lực đó là từ thời điểm ngân hàng phát hành tín dụng. Tuy nhiên lại chưa định nghĩa thế nào là phát hành tín dụng và thời điểm nào được coi là tín dụng đã được phát đi. Điều này đặc biệt có ý nghĩa bởi vì đó chính là thời điểm mà ngân hàng phát hành bị ràng buộc bởi cam kết thanh toán cho tín dụng thư.

♣ Điều khoản về tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ:


Khi làm nhiệm vụ kiểm tra chứng từ, các TTV phải tuân theo quy định của UCP600. Quy định càng cụ thể thì việc kiểm tra chứng từ càng nhanh chóng và sẽ hạn chế được những sai sót xảy ra từ việc kiểm tra chứng từ. Thế nhưng trong Điều14(d) UCP600 quy định như sau: “ Dữ liệu trong một chứng từ không nhất thiết phải giống hệt như khi đọc lời văn của tín dụng, của bản thân chứng từ và của tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế, nhưng không được mâu thuẫn với dữ liệu trong chứng từ đó, với bất cứ quy định nào khác hoặc với tín dụng.”

Quy định này thực sự mơ hồ và khó hiểu. Thực sự rất khó để xác định các chứng từ có mâu thuẫn nhau hay không. Và nhiều khi việc quyết định xem các dữ liệu, các thông số có mâu thuẫn với nhau hay không lại phụ thuộc vào sự nhạy cảm của người kiểm tra chứng từ

♣ Trách nhiệm của ngân hàng thông báo.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/12/2022