Những Nội Dung Cơ Bản Của Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Giáo Dục Lý Luận Chính Trị


thời, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức, tư tưởng của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, đánh dấu một bước ngoặt trên hành trình tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Đầu năm 1919, Người vào Đảng Xã hội Pháp, trong quá trình hoà mình vào cuộc đấu tranh sôi nổi của phong trào công nhân và Đảng Xã hội Pháp để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin. Người đón nhận những tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin với niềm phấn khởi và tin tưởng của một người chiến sĩ cách mạng sau nhiều năm nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn. Tác phẩm đã giúp Nguyễn Ái Quốc tìm thấy lời giải đáp cho những câu hỏi lớn về vận mệnh dân tộc, soi sáng con đường giải phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản. Tháng 12/1920, Người đã biểu quyết tán thành đứng về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản. Tiếp xúc với "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với lý luận cách mạng. Lý luận mà như Hồ Chí Minh sau này đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [95, 289]. Từ đây, nội dung giáo dục LLCT đã được hình thành và khẳng định: Giáo dục LLCT trước hết là giáo dục lý luận của “chủ nghĩa Lênin”.

Sau khi trở thành người cộng sản, Người được đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn tại trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô (năm 1923 – 1924). Quá trình học tập ở trường Đại học Phương Đông giúp Người nhận thấy, tầm quan trọng đặc biệt của việc giáo dục lý luận và những nội dung chủ yếu của giáo dục LLCT. Người viết: “Trường đã huấn luyện cho các chiến sĩ tiên phong tương lai ấy nguyên lý đấu tranh giai cấp, nguyên lý mà một mặt các cuộc đấu tranh chủng tộc và mặt khác các tập tục của chế độ gia trưởng đã làm lẫn lộn


trong đầu óc họ”[95, 324]. Người xác định: Trở về nước, thức tỉnh nhân dân, huấn luyện họ để đấu tranh giành tự do, độc lập. Với nhận thức đó, Người đã nhanh chóng bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, tích cực xúc tiến, chuẩn bị những điều kiện cần thiết, hướng phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản.

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về Quảng Châu (Trung Quốc), tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng, thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Những bài nói, viết của Người trong thời gian huấn luyện ở đây đã được tập hợp thành tác phẩm Đường Kách mệnh. Tác phẩm Đường Kách mệnh thể hiện rò quan điểm đặt lên hàng đầu vị trí, vai trò soi sáng của lý luận khi Nguyễn Ái Quốc dẫn luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [162, 279].

Quan điểm đó đã làm sáng tỏ nhận thức về sự cần thiết, vai trò to lớn của lý luận cách mạng. Một đảng cách mạng muốn thành công phải được trang bị lý luận tiền phong, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, trên cơ sở tình hình thực tiễn Việt Nam, để đưa cách mạng đến thắng lợi, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc phải giảng giải lý luận cách mạng và chủ nghĩa Mác - Lênin cho mọi người dân, nhằm hướng dẫn họ tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Muốn làm được cách mạng thì cần có lý luận. Lý luận cách mạng chung thì tìm trong chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận cách mạng trực tiếp thì tìm trong kinh nghiệm lịch sử bản thân dân tộc. Cần có lý luận cho những người cầm lái con thuyền cách mạng, cần có lý luận cho tất cả các chiến sĩ cách mạng, và cần có lý luận cho nhân dân; nhân dân phải biết vì sao nổi dậy và nổi dậy bằng cách nào. Mục đích của giáo dục lý luận là để “đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”[95, 283]. Chính trong quá trình tiếp nhận lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như


hoạt động thực tiễn, tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục LLCT đã dần hình thành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 218 trang tài liệu này.

Cuối năm 1940, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ ở một làng sát biên giới Việt - Trung. Tháng 2/1941, Người về nước, tiếp tục mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ. Trong những năm đầu cách mạng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung giáo dục tinh thần yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản, ý thức thống nhất dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác... Đây cũng chính là nội dung cơ bản của giáo dục LLCT trong thời kỳ này. Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, với vai trò là người tổng chỉ huy cách mạng, Người cũng đã yêu cầu công tác giáo dục LLCT tập trung vào giáo dục ý chí kiên cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 6 năm 1947, với sự chủ trì của Người, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở Trường Đảng đào tạo huấn luyện viên chính trị. Các ban tuyên huấn khu uỷ, tỉnh uỷ giúp cấp uỷ tăng cường chỉ đạo việc mở lớp huấn luyện ngắn ngày cho đảng viên mới, bồi dưỡng đào tạo cán bộ cơ sở và cán bộ huyện, đây cũng là tiền thân của các trường chính trị, TTBDCTCH sau này.

Trong quá trình vừa lãnh đạo cách mạng cũng như trực tiếp tham gia “huấn luyện” cán bộ, đảng viên của Đảng, Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói, bài viết, thể hiện quan điểm, tư tưởng của Người về giáo dục LLCT. Tư tưởng của Người về giáo dục LLCT là một hệ thống sâu sắc, toàn diện về tất cả các lĩnh vực của hoạt động giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu sự nghiệp giáo dục của mình từ khi là thầy giáo Nguyễn Tất Thành, dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết), đến những năm tháng hoạt động ở Pháp với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Thầu Chín ở Xiêm (Thái Lan), Lý Thụy ở Trung Quốc... và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Những năm tháng đó, Người đã tổ chức và trực tiếp giảng dạy nhiều lớp huấn luyện chính trị, văn hóa và quân sự cho bao lớp cán bộ, đảng viên, đào tạo nên nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ cách mạng Việt Nam, những lãnh tụ xuất sắc cho Ðảng. Chính trong quá trình tìm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục lý luận chính trị tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện ở Việt Nam hiện nay - 6


đường cứu nước, kế thừa và phát triển truyền thống giáo dục của dân tộc, tinh hoa giáo dục nhân loại, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn đấu tranh giành độc lập, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, Người đã dần hoàn thiện tư tưởng về giáo dục LLCT.

Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới lý luận cách mạng và thực hành kiên trì, bền bỉ việc giáo dục lý luận cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Hiếm có một nguyên thủ quốc gia nào lại quan tâm đặc biệt đến giáo dục như Hồ Chí Minh. Trong sự hình thành tư tưởng về giáo dục LLCT có dấu ấn của các quan điểm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng phương Đông (Tư tưởng học để làm quan, được làm quan rồi lại tiếp tục học, học cho mình, học vì người; quan điểm dạy học phải đúng đối tượng với chương trình phù hợp, cá nhân hóa từng học trò, dạy từ thấp lên cao, đối thoại gợi mở, sự tương tác giữa thầy và trò... của Khổng Tử) và tư tưởng “học suốt đời” của V.I. Lênin. Tư tưởng về giáo dục LLCT của Hồ Chí Minh rất rò ràng, dễ hiểu, cụ thể, sát thực. Đó là một hệ thống quan điểm của Người từ vị trí, vai trò, chủ thể, đối tượng, mục đích của giáo dục LLCT đến nội dung, nguyên tắc, phương châm, phương pháp, cách thức tổ chức và các điều kiện giáo dục LLCT. Người đã để lại cho cách mạng Việt Nam một di sản to lớn về giáo dục LLCT, có ý nghĩa lịch sử, thời đại, thực tiễn sâu sắc, còn nguyên giá trị trong công tác giáo dục, đào tạo hiện nay.

2.1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị

2.1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về lý luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh nói một cách cụ thể: "lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rò ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính" [94, 273]. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ rò: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm


của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [97, 96]. Định nghĩa về lý luận của Người không những làm sáng tỏ quan niệm triết học về lý luận mà còn làm sáng tỏ nguồn gốc, cách thức hình thành lý luận. Lý luận xét tới cùng, là từ thực tiễn mà đúc kết, khái quát lên. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể khác nhau đều phải có lý luận riêng và mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu bằng việc phát triển lý luận. Có lý luận trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, lý luận trong lĩnh vực khoa học xã hội, lý luận trong lĩnh vực chính trị,...

Xét về nguồn gốc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu về lý luận và thực tiễn chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và xây dựng chính quyền nhà nước. Về bản chất, lý luận phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Nội hàm khái niệm lý luận gồm: Các tri thức lý luận về xây dựng Đảng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cầm quyền; các tri thức lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước, hiến pháp, pháp luật; tri thức lý luận để tuyên truyền, truyền bá và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với cách hiểu LLCT là những vấn đề lý luận gắn liền với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp, xung quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng chính quyền thì lý luận trong cách nói ở trên của Hồ Chí Minh đã mang hàm nghĩa LLCT.

Theo Người, giáo dục là “bồi dưỡng thế hệ công dân, cán bộ sau này. phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới” [67, tr.344]; “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta” [108, 508], hoặc “… huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [99, 309], “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ,


trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta” [99, 313].

Khi nói về những tiêu chuẩn để định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng ở trường Đảng Người chỉ rò: “…chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng… Đức phải có trước tài” [106, 269], đồng thời, Người lý giải: “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn. Nếu thầy cô giáo bàng quan thì lại đúc ra một số công dân, cán bộ không tốt” [106, 269]. Tuy không đưa ra khái niệm cụ thể của “giáo dục LLCT”, song Hồ Chí Minh đã thể hiện tính mục đích và tính định hướng chính trị rất rò đối với hoạt động giáo dục - có nghĩa là thiên về giáo dục LLCT.

Như vậy, theo cách hiểu, giáo dục là hoạt động tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất, năng lực như yêu cầu đề ra, thì giáo dục LLCT chính là là quá trình phổ biến, truyền bá một cách cơ bản, có hệ thống, nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, tạo nên bản lĩnh chính trị, niềm tin có cơ sở khoa học vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng; nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn; giáo dục đạo đức, lối sống, tinh thần tự giác và tích cực trong các hoạt động xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trong di sản Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục LLCT chiếm một vị trí quan trọng. Người để lại cho chúng ta một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục LLCT. Thông qua những bài nói, viết của Người, có thể hệ thống được tất cả những nội dung liên quan đến hoạt động giáo dục LLCT. Đó là tư tưởng về vị trí, vai trò, mục đích của giáo dục LLCT; về chủ thể, đối tượng, nội dung, chương trình,


nguyên tắc, phương pháp, phương châm, cách thức tổ chức quản lý, điều kiện cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động giáo dục LLCT. Di sản đó có thể được coi như triết lý giáo dục Hồ Chí Minh về LLCT.

2.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, mục đích của giáo dục lý luận chính trị

Theo Hồ Chí Minh, giáo dục LLCT có vai trò, vị trí hết sức quan trọng:

Thứ nhất, giáo dục lý luận chính trị đóng vai trò định hướng hoạt động; tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội về mục tiêu con đường đi lên của đất nước. Không có lý luận cách mạng và khoa học soi đường thì như người đi trong đêm tối không biết đường ra.

Chính đảng của giai cấp công nhân không ra đời một cách tự phát. Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp giai cấp công nhân hiểu được quy luật phát triển của xã hội; chuyền từ tự phát lên tự giác, đấu tranh vì lợi ích kinh tế lên mục tiêu chính trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản đề ra đường lối, chính sách, những giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình cách mạng.

“Lý luận làm cho quần chúng giác ngộ, bày cho quần chúng tổ chức, động viên quần chúng để đấu tranh cho đúng. Nhờ lý luận mà quần chúng hiểu rò nguyên nhân vì sao mà cực khổ, thấy rò đường lối đấu tranh để giải phóng mình, hiểu rò phương pháp đấu tranh với địch. Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình” [101, 276-277].

Để lật đổ được chế độ tư bản, xây dựng chế độ xã hội mới, cần có sự lãnh đạo của một đảng được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng, vừa phản ánh đúng đắn những quy


luật khách quan của sự phát triển xã hội, vừa chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược, phương pháp đấu tranh cách mạng để giành và giữ chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rò:

"Không hiểu lý luận thì như người mù đi đêm"; “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”; [95, 289].

Thứ hai, giáo dục lý luận chính trị nhằm trang bị lập trường giai cấp vô sản, để từ đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Hồ Chí Minh khẳng định:

“Muốn cải tạo xã hội mà đảng viên không tự cải tạo mình, không tự nâng cao mình thì không thể được. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đảng viên và cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản thật vững chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao; đòi hỏi cán bộ và đảng viên phải rửa sạch ảnh hưởng của những tư tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện chủ nghĩa tập thể…”[ 104, 93].

Trong mọi giai đoạn cách mạng, việc giáo dục LLCT đã giúp cán bộ, đảng viên được trang bị đầy đủ, toàn diện hơn, có sự hiểu biết sâu sắc hơn tri thức LLCT, đó là cơ sở để cán bộ, đảng viên, nhân dân giữ vững bản lĩnh chính trị; củng cố, tăng cường niềm tin vào tương lai của dân tộc, của cách mạng, lý tưởng cộng sản; làm cho cán bộ, đảng viên tự tin hơn trong công tác, là cơ sở để cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Bản lĩnh chính trị là sự tổng hợp những phẩm chất tích cực của con người. Bản lĩnh đó không chỉ thể hiện ở sự vững vàng, kiên định trong quan điểm, lập trường chính trị, không tỏ ra hoang mang, dao động, không có

Xem tất cả 218 trang.

Ngày đăng: 10/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí