Lí Thuyết Về Hoạt Động Giao Tiếp Vàhoạt Động Day Hoc Tpvc Trong Nhàtrươǹ G Thpt.‌


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1‌

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG LÍTHUYẾT‌


VỀHOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP VAÒ DAỴ HỌC ĐOC HIÊỦ‌


TRUYỆN NGẮN “HAI ĐƯÁ TRẺ” CUẢ THACḤ LAM.‌


1.1 Lí thuyết về hoạt động giao tiếp vàhoạt động day hoc TPVC trong nhàtrươǹ g THPT.‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

1.1.1 Quan niệm vềgiao tiếp.‌

Giao tiếp (GT) là quá trình trao đổi thông tin (bao gồm cả tri thức, tình

Vận dụng lí thuyết về hoạt động giao tiếp vào dạy học đọc hiểu truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Dương Thị Duyên - 3

cảm, thái độ, ước muốn, hành động…) giữa ít nhất hai chủ thể GT (kể cả

trường hợp một người GT

với chính mình) diễn ra trong một ngữ

cảnh và

một tình huống nhất định, bằng một hệ thống tín hiệu nhất định.

1.1.2 Các nhân tố trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.‌

Mục đích GT

Người nhận TT

Hoạt động GT bao gồm các nhân tố: nhân vật GT (người phát thông tin, người nhận thông tin), nội dung GT, đích GT, phương tiện GT, kênh GT, hoàn cảnh GT...Các nhân tố này có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình GT để đạt hiệu quả cao nhất.


Nội dung GT

Phương tiện GT

Kênh GT

Người phát TT


Sơ đồ1.1


Hoạt động GT bằng ngôn ngữ

bao giờ

cũng diễn ra trong một tình

huống nhất định với những biểu hiện cụ thể: mối tương quan giữa các nhân

tố trong hoạt động GT, mục đích GT, thời gian, không gian của hoạt động

GT. Người nói (người phát thông tin) là người sản sinh ra văn bản hoặc phát

ngôn. Người nghe (người nhận thông tin) là người lĩnh hội văn bản hoặc

phát ngôn. Đối tượng

được đề

cập hay phản ánh là những ý nghĩ hoặc

những tình cảm mà người nói có và muốn truyền đạt, hoặc nói một cách chính xác hơn là muốn kích thích ở người nghe. Ngôn ngữ là hệ thống các kí

hiệu và những quy tắc sử

dụng những kí hiệu này, mà cả

người nói và

người nghe đều có thể vận dụng trong GT. Đường kênh là môi trường được sử dụng để truyền đạt và tri giác văn bản (Chẳng hạn, trong kĩ thuật đó là dây điện thoại dẫn những dao động điện từ, không gian truyền lan của những sóng vô tuyến; còn trong ngôn ngữ học đó là những phương thức phát âm bằng miệng hay viết ra bằng văn tự; trong nghiên cứu văn học, đó là thể

loại truyện ngắn hay truyện vừa, tiểu thuyết hay thơ). Văn bn hoặc ngôn

bn là sản phẩm của hoạt động lời nói. Trong hoạt động GT sẽ có các mối tương quan: giữa người nói và người nghe, giữa người nói và người nghe với nội dung GT, giữa người nói và người nghe với đối tượng được đề cập, giữa người nói và người nghe với ngôn ngữ, giữa văn bản với đường kênh, giữa văn bản với ngôn ngữ.

Những hiểu biết về các nhân tố và tình huống của hoạt động GT ở trên

là thực sự

cần thiết đối với cả

người nói lẫn người nghe.

Ở người nói

(người phát thông tin), năng lực GT thể hiện ở chỗ có ý thức rõ ràng về điều

định nói, biết quan tâm tới người nghe, biết cách tổ chức một văn bản để

truyền qua đường kênh sao cho đúng chuẩn mực, biết lựa chọn các phương


tiện ngôn ngữ để diễn đạt, biết chọn điều gì cần nói cho phù hợp, biết nói

đúng lúc, đúng chỗ, có khi còn phải biết chọn nhân vật GT. Ở người nghe

(người nhận thông tin), năng lực GT thể

hiện

ở: khả

năng lĩnh hội được

những điều người ta nói hoặc viết, khả năng nhận biết thái độ tình cảm của người nói và khả năng ứng xử bằng ngôn ngữ trước thông điệp mà người ta chuyển đến cho mình.

Trong hoạt động GT, sản sinh và lĩnh hội văn bản là hai quá trình thống nhất với nhau. Chúng ta có thể hình dung quá trình sản sinh và tiếp nhận lời nói qua sơ đồ của TS Nguyễn Thị Hiên sau đây:


S

S’

D’

LỜI NÓI

D’

TẠO LẬP

TIẾP NHẬN

N

N’

MÃ HÓA

GIẢI MÃ


Sơ đồ 1.2: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

Theo sơ đồ trên, khi có nội dung D xuất hiện trong đầu, người phát tin tìm cách truyền nó đến người nhận. Nhưng nội dung D lại thuộc lĩnh vực tinh

thần nên để

truyền được nội dung D

ấy đến cho người nhận, người phát

phải tìm cách vật chất hoá nó. Để vật chất hoá nội dung ấy, người phát có thể sử dụng ngôn ngữ. Trong hoạt động GT bằng ngôn ngữ, quá trình chuyển nội dung D từ bình diện tinh thần sang nội dung D thuộc lĩnh vực ngôn ngữ


được gọi là quá trình mã hoá ngôn ngữ. Đây chính là quá trình sản sinh, tạo lập lời nói.

Trong sơ đồ trên, S ­ S’ được gọi là những kiến thức, những hiểu biết mà người phát và người nhận có được ở thời điểm GT. Những hiểu biết đó đã được tích luỹ qua việc học hỏi trong nhà trường và qua đời sống của bản

thân người phát cũng như người nhận, vốn sống của con người vô cùng

phong phú, bởi vậy, trong một cuộc GT, người phát không cần và cũng không thể đưa hết vào trong một lời nói. Nhưng vốn sống, vốn hiểu biết đa dạng,

phong phú đó sẽ tạo thành cái nền cho người phát trình bày những vấn đề

trong văn bản, giúp cho người phát thể hiện vấn đề một cách hàm súc vàsâu sắc hơn. Thiếu điều này, người phát khó có thể tạo ra được lời nói có nội dung GT và người nhận cũng khó có thể tiếp nhận đầy đủ nội dung GT mà người phát truyền đi.

Ngoài vốn sống, trong hoạt động GT người phát cần có vốn ngôn ngữ nhất định. Vốn ngôn ngữ là những hiểu biết về ngôn ngữ nói chung cũng như những kĩ năng sử dụng vốn hiểu biết đó vào một tình huống GT cụ thể. Ngôn ngữ luôn là yếu tố mở và có sự biến động. Chúng có thể thêm đặc tính mới, hoặc rút bớt giá trị. Như vậy, hiệu quả của lời nói phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động GT của các nhân vật GT. Trong GT, vốn sống, vốn hiểu biết được thể hiện thông qua ngôn ngữ. Vốn ngôn ngữ càng phong phú thì khả năng diễn đạt của người phát càng tinh tế và hiệu quả GT càng cao.

1.1.3. Giao tiếp văn học.‌

Văn học là một loại hình nghệ thuật duǹ g ngôn ngữ và hình tượng để thể hiện đời sống và xã hội con người. TPVH là một đơn vị cơ sở của VH, là cầu nối, là phương tiện GT giữa người sáng tác và người tiếp nhận. “Sáng tác văn chương là mt nhu cu giao tiếp, là mt hot động giao tiếp vi đời

sống, với mọi người và với chính bản thân chủ

thể

sáng tạo” [20, 225].

Những hoạt động “giao lưu” giữa người sáng tác và người tiếp nhận qua tác phẩm VH gọi là hoạt động GTVH.

1.1.3.1. Sáng tác và tiếp nhận văn học là những hoạt động giao tiếp.‌

­ Sáng tác văn học là hoạt động của nhà văn muốn được bộc lộ mình, muốn nói với ai đó về các vấn đề của cuộc sống.

GT là một nhu cầu có tính chất xã hội của con người. Nhà văn bắt tay vào sáng tác VH cũng là đang GT, muốn mời gọi người đọc, hướng tới một ai đó, một người đọc giả định nào đó. Sự ra đời của AQ chính truyn (Lỗ Tấn) không phải ngẫu nhiên mà đã nằm trong ý muốn chủ quan của nhà văn: “Tôi mun viết cho chú AQ mt thiên chính truyn như thế đã lâu lm ri”. Hay Nguyễn Du khi viết Độc tiu thanh kí, trước hết là muốn nói với chính bản thân mình bằng sự suy ngẫm trước cuộc đời của một con người tài hoa yểu

mệnh, sau đó cũng mong mỏi một ngày nào đó có sự đọc;

đồng cảm của người

“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

Sáng tác VH còn là một nhu cầu muốn giải thoát nội tâm của nhà văn. Cũng giống như những người bình thường khác, nhà văn cũng có những ấn tượng cảm xúc về thế giới. Ở nhà văn, những ấn tượng cảm xúc này thường là mãnh liệt đến mức không thể viết ra, nói ra. Người xưa nói “thi ngôn chí” (thơ bày tỏ lí tưởng), “thi ngôn tình” (thơ bày tỏ tình cảm). Ngày nay, những sáng tác của các nhà văn ít nhiều đều được hình thành từ nhu cầu muốn được giải phóng năng lượng, giải tỏa cảm xúc, giải thoát nội tâm. Nguyên Hồng từng nói: “Nhng cái tôi viết là nhng yêu thương nht ca tôi”. Như vậy, đối với người nghệ sĩ, nghệ thuật sẽ góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng của những xúc cảm dồn chứa trong tâm tư. Nhà văn bao giờ cũng mong muốn GT,


mong muốn người khác thấu hiểu những điều mà anh ta quan sát, suy nghĩ và thể nghiệm.

­ Tiếp nhận văn học là hoạt động giao tiếp, đối thoại giữa người đọc và tác giả qua tác phẩm.

Theo GS ­ TS Trần Đình Sử: “Tiếp nhận văn học là một cuộc giao

tiếp, đối thoại tự

do giữa người đọc và tác giả

qua tác phẩm. Nó đòi hỏi

người đọc tham gia với tất cả trái tim, khối óc, hứng thú và nhân cách, tri

thc và sc sáng to” [8]. Đọc TPVC, độc giả thực hiện một hành vi GT với tác giả. Tác phẩm là sản phẩm của sáng tạo, của sự tái tạo đời sống theo quy

luật của cái đẹp. Sự

GT này là GT thẩm mĩ. Người đọc sẽ

không dừng ở

phạm vi văn bản mà sự tiếp nhận của họ còn vươn tới các phạm trù văn hóa ­ xã hội ­ lịch sử ­ chính trị ­ đạo đức ­ thẩm mĩ. Bởi sự thưởng thức cái đẹp là một sự khát thèm về tinh thần, là sự đòi hỏi được thỏa mãn về chân, thiện, mỹ.

­ TPVH (hình thức là văn bản) là phương tiện GT giữa nhà văn và bạn

đọc.

TPVH là sự

kết tinh quá trình tư

duy nghệ

thuật của tác giả, biến

những biểu tượng, ý nghĩ, cảm xúc bên trong của nhà văn thành một sự thực văn hóa xã hội khách quan cho mọi người soi ngắm, suy nghĩ. Người đọc chỉ có thể nhận thức thế giới thực tại, cảm nhận được tâm sự của nhà văn thông qua “đứa con tinh thần” này. Bởi thế, dưới hình thức văn bản ngôn ngữ, TPVH bao giờ cũng là phương tiện duy nhất để bạn đọc thực hiện hoạt động GT với nhà văn.

Hoạt động VH là một quá trình toàn vẹn, trong đó tác giả, tác phẩm, người đọc đều là các yếu tố không thể thiếu. TPVH đóng vai trò môi giới, là chiếc cầu nối tác giả và bạn đọc. Trong thực tế, người đọc luôn có thái độ đối thoại đối với tác phẩm. Họ đồng cảm, đồng tình, nêu vấn đề và tìm lời


đáp trong tác phẩm hoặc phản ứng, phản bác, phủ nhận. Các đối thoại làm cho tác phẩm có dịp mở tung mọi chiều sâu. Hệ thống ngôn ngữ và thế giới

hình tượng trong tác phẩm sẽ

giúp người đọc nhận ra khả

năng phản ánh

cuộc sống, khái quát hiện thực, hiểu được tư tưởng, thái độ, tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, xúc cảm của nhà văn trước các vấn đề của cuộc sống do nhà

văn nêu ra. Thông qua văn bản ngôn ngữ, người đọc có thể thực hiện tiếp

nhận một TPVH nhiều lần, nhiều mức độ gian khác nhau.

trong những không gian và thời

Tóm lại, từ sáng tác đến tiếp nhận VH là một quá trình GT bao gồm các

nhân tô:́ nhân vt GT

(người nói, người nghe),

nội dung GT, phương tiện

GT...tất cả diễn ra trong một hoàn cnh GT nhất định, hướng tới đích GT cụ thể. Trong hoạt động GT bằng ngôn ngữ, GTVH là một GT đặc biệt, một GT mang tính thẩm mĩ.

1.1.3.2. Giao tiếp văn học là một dạng đặc biệt của giao tiếp ngôn ngữ.‌

­ Về chủ thể giao tiếp văn học.

Chủ

thể

trong bất kì một hoạt động GT nào cũng bao gồm người

“phát” và người “nhận”, ở GTNN là người nói và người nghe. GTVH cũng là hoạt động GTNN, nhưng chủ thể GT và quan hệ giữa các chủ thể GT không

hoàn toàn giống với GTNN. Nếu người “phát” trong GTNN chỉ có một thì

người “phát” trong GTVH hàm chứa nhiều vai: khi là tiếng nói của tác giả, khi thì nhân vật phát ngôn, lúc thì của người kể, lúc của người đối thoại..

.nhưng đều hướng tới người “nhận” duy nhất là người đọc “tác phẩm”.

Đến với TPVH, hình tượng VH (hình tượng nhân vật, hình tượng thiên nhiên, hình tượng đời sống) là đối tượng tiếp xúc đầu tiên, người “phát” đầu tiên đến với độc giả (có thể là hình tượng nhân vật, hình tượng thiên nhiên hay hình tượng đời sống). Khi đọc “tác phẩm”, người đọc thường không

nhớ

tới người sáng tạo ra hình tượng là ai mà chi nhớ

đến nhân vật, đến


bức tranh miêu tả thiên nhiên hay đời sống trong tác phẩm. GT với hình

tượng VH như

là GT với một thực thể

sống tồn tại như ở

ngoài đời.

Chẳng hạn, đọc tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), người ta thường nói như

được được gặp những Chí Phèo, thị Nở, bá Kiến, lí Cường,...bằng xương bằng thịt hoặc như được sống trong một làng quê với những cảnh sắc bình

thường giản dị

như

cảnh vườn chuối, cảnh mỗi buổi sáng thức dậy với

tiếng chim hót, tiếng người đi chợ

là vì vậy. Với tác phẩm trữ

tình cũng

tương tự, tuy nhiên, hình tượng trong tác phẩm trữ tình là hình tượng tâm

trạng, cảm xúc, ranh giới giữa vật chất trữ

tình và tác giả

thường là rất

mong manh khiến cho người đọc dễ nhầm lẫn giữa tác giả và nhân vật trữ tình. Hình tượng VH tuy được nhà văn sáng tạo ra nhưng lại có đời sống riêng, tương đối độc lập với ý định của người sáng tạo ra nó. Việc phân

biệt rõ hình tượng nghệ

thuật và hình tượng tác giả

là một định hướng

quan trọng trong tiếp nhận VH. Tuy nhiên hình tượng VH bao giờ phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan.

cũng

Người “phát tin” thứ hai đến với người đọc sau hình tượng trong hoạt động GTVH chính là tác giả. Nhà văn sáng tạo ra “tác phẩm” là nhằm đem đến cho người đọc một điều gì mới mẻ mà ông ta quan sát được từ cuộc sống và “lời đề nghị” cần phải nhìn nhận cuộc sống như thế nào. Nhà văn không những phản ánh thực tại khách quan mà còn chứng tỏ với “người nhận” về sự đóng góp, cái mới mẻ, riêng biệt trong cảm nhận về thế giới so với tác giả khác. Tư tưởng, thái độ, tình cảm của nhà văn với hiện thực thường bộc lộ

trong quá trình miêu tả

hoặc những lời bình luận “trữ

tình ngoại đề”. Như

vậy, GT với nhà văn là GT với một con người đứng đằng sau các hình tượng

VH, mặc dù vậy người đọc cũng không thể bỏ qua các lời bình phẩm trực

tiếp xen lẫn trong quá trình miêu tả. Nguyễn Du miêu tả Kiều bị Tú bàhành hạ nhưng rồi ông cũng phải thốt lên lời cảm thương trước một sự thật tàn

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 21/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí