nổi lên hàng đầu là các chuẩn mực về trách nhiệm đạo đức trong nghiên cứu khoa học, phải là một thể chế của bất cứ trung tâm khoa học nào, kể cả trường đại học, và phải được xem như là một mục tiêu của khoa học.
3.2.2. Trách nhiệm đạo đức của các cá nhân, tổ chức trong ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống
Trách nhiệm này trước hết đòi hỏi các tổ chức, cá nhân đó cần ưu tiên trong đầu tư các công nghệ mới, thiết bị mới, sản phẩm thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn nguyên vật liệu, năng lượng, tìm kiếm các vật liệu mới trong sản xuất, để hạn chế rác thải ra môi trường.
Một là, trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động khoa học, công nghệ trước những vấn đề về môi trường sinh thái
Như chúng ta đã biết, nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ trong nửa cuối thế kỷ XX, con người đã có trong tay những cái cần có để tìm hiểu những bí mật của thế giới tự nhiên, khai thác tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Những tưởng sự thịnh vượng vật chất sẽ là thiên đường của con người. Song, không phải vậy. Cùng với việc tạo ra một khối lượng của cải to lớn (do khai thác theo kiểu bóc lột tự nhiên), con người đã tạo nên những nguy cơ đe dọa trực tiếp sự sống của bản thân mình. Sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại đã gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường sống. Dựa vào các phương tiện kỹ thuật hiện đại, con người đã áp đặt sự thống trị của mình và vắt kiệt tự nhiên một cách vô trách nhiệm. “Tất cả mọi người đều bận tâm nghĩ đến những tiện nghi của những kỳ tích khoa học - kỹ thuật và những thành tựu kinh tế, chẳng ai chú ý đến cái giá phải trả và hạn chế sau này, tất nhiên không ai nghĩ rằng nền kinh tế thế giới sẽ phát triển chậm lại” [40, tr.154], đó là tình trạng chung của nhân loại ở giai đoạn đầu của sự phát triển khoa học và công nghệ. Khai thác tự nhiên bằng mọi giá, lấy đi mọi cái có thể lấy, con người (trong xã hội hiện tại) vô tình đã đối xử không công bằng, thiếu trách nhiệm đạo đức trước các thế hệ tương lai.
Tư tưởng tôn trọng môi trường, nhận thức tự nhiên để sống hài hòa với tự nhiên là trách nhiệm đạo đức của con người trong quan hệ với tự nhiên. Hoạt động khoa học, công nghệ có nhiều phương cách tác động tới môi trường tự nhiên, do vậy, nhận thức tự nhiên và thông qua nhận thức đó mà con người có sự điều chỉnh phương thức sống, cách thức sáng tạo cũng như cách ứng xử với tự nhiên.
Dựa vào những tri thức mới, con người dần dần nhận ra rằng, không thể nuôi dưỡng mãi trong mình một quyền năng vô hạn trước tự nhiên. Điều quan trọng là chính sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại đã và đang tạo ra những cơ hội cho con người sửa chữa sai lầm. Những tri thức mới và sự hiểu biết khoa học về thế giới vật chất đã trở thành cơ sở cho một sự thay đổi có tính bước ngoặt trong nhận thức về mối quan hệ con người - tự nhiên. Xuất phát từ cách nhìn tổng thể, hệ thống, dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn, một quan hệ mới về chất - chung sống hài hoà, gắn bó máu thịt giữa con người với tự nhiên đang hình thành. Đó chính là nền tảng của đạo đức môi trường, trong đó có “Trách nhiệm môi trường”.
Mỗi cơ thể sống dù là cá nhân con người hay bất cứ một loại sinh vật nào tồn tại trên trái đất ở trong mọi trạng thái đều bị chi phối bởi môi trường. Môi trường có thể được hiểu là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên của con người; môi trường cũng là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối tượng của lao động sản xuất và hình thành các nguồn cần thiết cho việc sản xuất của cải vật chất của loài người. Trong số này, một số có thể tái tạo được, một số không thể tái tạo được. Theo nghĩa đó, con người trong hoạt động khoa học, công nghệ đã không ngừng sáng tạo ra các công cụ để tiến hành khai thác tự nhiên, nếu khai thác ở mức độ nhanh hơn mức độ tái tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc khủng hoảng môi trường. Do vậy, khái niệm môi trường đề cập nhiều hơn đến môi trường tự nhiên, chưa thể hiện được mối quan hệ giữa tự nhiên và
Có thể bạn quan tâm!
- Giới Hạn Của Tự Do Trong Hoạt Động Khoa Học, Công Nghệ
- Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay - 12
- Trách Nhiệm Đạo Đức Trong Hoạt Động Khoa Học, Công Nghệ
- Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay - 15
- Một Số Vấn Đề Về Tự Do Và Trách Nhiệm Đạo Đức Trong Hoạt Động Khoa Học, Công Nghệ Được Đặt Ra Hiện Nay
- Các Tổ Chức, Cá Nhân Tham Gia Nghiên Cứu Và Ứng Dụng Khoa Học, Công Nghệ Cần Nhận Thức Rõ Cơ Sở Đạo Đức Của Những Sáng Tạo Khoa Học, Công Nghệ
Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.
xã hội trong quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau thành một thể thống nhất của môi trường nói chung.
Hơn thế nữa, môi trường cũng có thể được hiểu là tổng thể các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của một sinh vật, hiện tượng nào đó. Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại và phát triển trong môi trường nhất định. Đối với cơ thể sống thì môi trường là tổng thể những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể. Đối với con người, môi trường là tổng hợp tất cả các điều kiện vật lý, hóa học, kinh tế, xã hội bao quanh có ảnh hưởng đến sự sống và sự phát triển của từng cá nhân của cộng đồng. Do đó, môi trường sống của con người là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người. Môi trường sống của con người bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, về các điều kiện sống của con người, sự tồn tại và phát triển của loài người, thì yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người là điều kiện địa lý, dân số, phương thức sản xuất trong điều kiện hiện tại. Ba nhân tố đó cũng có thể xem là các nhân tố môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường kinh tế. Như vậy, môi trường ở đây không phải là thế giới tự nhiên nói chung mà là thế giới tự nhiên đặt trong quan hệ mật thiết với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người, nó là mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố tự nhiên, xã hội, nhân tạo và nêu bật vai trò của môi trường đối với đời sống xã hội loài người.
Trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ gắn liền với việc bảo vệ môi trường được hiểu là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong quá trình sáng tạo khoa học, tác động vào thế giới tự nhiên. Trong đó, mọi cá nhân, tổ chức phải có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ môi trường, đó là việc thi hành pháp luật về bảo vệ môi
trường, có quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Trong hoạt động khoa học, công nghệ, các quốc gia khuyến khích đầu tư dưới nhiều hình thức, áp dụng tiến Bộ Khoa học và công nghệ vào bảo vệ môi trường và cải thiện môi trường, sử dụng và khai thác lâu bền các thành phần môi trường và hệ sinh thái. Và, có nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về đánh giá tác động môi trường, đảm bảo thực hiện đúng tiêu chuẩn môi trường, phòng chống, khắc phục suy thoái ô nhiễm môi trường, bồi thường thiệt hại do hành vi gây tổn hại môi trường…
Trách nhiệm môi trường xuất hiện khi con người bắt đầu ý thức được những hành vi, hoạt động của mình đang tác động hủy hoại đến môi trường, đe dọa sự sống của họ. Mặc dù vậy, những nghiên cứu về trách nhiệm môi trường mới chỉ thực sự được nhìn nhận đúng mực trong khoảng vài thập niên gần đây, khi những hoạt động của con người ảnh hưởng đến thiên nhiên ngày càng trầm trọng. Những tác động hủy hoại đến môi trường khiến con người dần nhận thức được rằng, nếu không quan tâm đến môi trường sống tự nhiên của mình thì sớm muộn, con người cũng bị tự nhiên trả thù, bị hủy diệt. Trách nhiệm môi trường yêu cầu, con người không những phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước các cá nhân khác và trước xã hội, mà còn phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình trước tự nhiên - môi trường sống của con người. Theo đó, con người cần phải hành động một cách khôn ngoan để không làm phương hại đến môi trường với tư cách là toàn bộ hệ thống sinh tồn của con người và các sinh thể khác vì lợi ích của chính con người và các sinh thể đó.
Khi con người có được ý thức sâu sắc về sự đồng nhất giữa các sinh vật, về giá trị của sự sống thì con người sẽ biết tôn trọng và bảo vệ môi trường, bảo vệ cái vốn có của nó.
Trên thế gian này, mọi sự vật đều có giá trị nội tại và bình đẳng với nhau. Nếu con người muốn duy trì sự tồn tại bình thường cũng như trong vũ trụ, con người phải tôn trọng sự công bằng tự nhiên đó - công bằng đến từng sinh vật. Trường hợp phải sát sinh, con người phải có trách nhiệm tái hợp sự công bằng [123, tr.46].
Con người sử dụng khoa học, công nghệ để biến đổi, cải tạo tự nhiên nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình và sự phát triển của xã hội. Song, sự can thiệp thô bạo của con người vào tự nhiên, mang lại những hậu quả tiêu cực cho môi trường sinh thái, suy đến cùng là do chính bản thân con người và xã hội. Sự sống và hoạt động của con người hiện đại không chỉ cần có khoa học và công nghệ, mà còn rất cần một môi trường tự nhiên trong lành. Một môi trường như vậy rất cần cho sự phát triển lâu bền. Bởi vậy, phát triển lâu bền (bền vững) là một thách thức lớn đang được đặt ra cho toàn nhân loại trong thời đại hiện nay. Con người có vượt qua được thử thách lớn lao và đầy cam go này hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có khoa học và công nghệ với tư cách là sản phẩm của sự sáng tạo của con người, một lần nữa lại phải giữ vai trò chủ đạo.
Những thành tựu khoa học, công nghệ đã tạo ra những tiện nghi sinh hoạt hiện đại, giúp con người khám phá tự nhiên theo con đường nhận thức. Tuy nhiên, những mối quan hệ trực tiếp của con người với tự nhiên, với xã hội là nền tảng, trên đó hình thành phát triển nhân cách có nguy cơ bị co hẹp, bởi cảnh báo mà nhân loại đã từng biết đến từ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất: “Khoa học không có lương tâm thì chỉ là sự hủy hoại của tâm hồn”, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Ý thức được vấn đề này, trong mấy chục năm qua, các Hội nghị thượng đỉnh về môi trường ở cấp độ toàn cầu đã diễn ra thường xuyên và tập trung bàn đến những vấn đề môi trường cấp bách nhất. Mặc dù còn những điểm bất đồng hay chưa nhất trí tuyệt đối, song nỗ lực trên đã cho thấy sự cố gắng
rất lớn của nhân loại đối với các vấn đề toàn cầu. Đặc biệt, trách nhiệm môi trường của cộng đồng thế giới ngày càng được quan tâm, thảo luận và nhất trí giữa các quốc gia về các vấn đề rất cụ thể. Một trong những cột mốc quan trọng ghi dấu cho quan tâm này là Tuyên bố Xơun về đạo đức môi trường với 4 nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm. Nội dung của nguyên tắc này là:
Mọi thành viên của xã hội loài người đều có trách nhiệm duy trì sự toàn vẹn của môi trường toàn cầu như một hệ thống - sự sống tổng thể. Chúng ta cần phải nhận thấy trách nhiệm này là sự thể hiện quyết tâm thực thi nghĩa vụ và sự kiên định trong bảo vệ tính toàn vẹn của môi trường toàn cầu trong cuộc sống hàng ngày. Các nỗ lực độc lập đó cần được tăng cường hỗ trợ bằng việc xây dựng các mạng lưới liên kết và các nhóm trong quần chúng xã hội và chính phủ, giới công nghiệp và doanh nghiệp, cũng như các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Nhờ sự tham gia và phối hợp hợp tác như vậy, những chính sách thích hợp sẽ có thể được xây dựng và thực hiện một cách có hiệu quả [77, tr.36].
Thiết nghĩ, trách nhiệm ấy, không chỉ được thể hiện thông qua những điều luật, những quy định mang nguyên tắc cưỡng chế mà nên chăng cần đánh thức ý thức ấy trong mỗi người một cách tự giác thông qua tiếng nói của lương tâm. Để thực hiện điều này không hề đơn giản, bởi nó đòi hỏi một sự đồng thuận cao. Sự đồng thuận ấy không chỉ giới hạn trong lĩnh vực đạo đức mà phải được nâng lên tầm văn hóa phổ biến, thành một nét đẹp trong văn hóa ứng xử. Tuy nhiên, thực tế không như chúng ta mong đợi, khi trong xã hội tính đồng thuận không phải chủ đạo, mà nhường chỗ cho những bất đồng. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay.
Tóm lại, hiện nay, để giảm thiểu những mặt trái và tác động tiêu cực của việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống, chúng ta mới chỉ bằng cách thông qua những luật lệ, những quy định, những ràng buộc mang
tính nguyên tắc. Chẳng hạn, ở Việt Nam, năm 2005, đã ban hành Luật bảo vệ môi trường. Trong đó có ghi rõ 16 hành vi vi phạm bị cấm. Và, nó chỉ hạn chế được phần nào những tác động tiêu cực. Do đó, để đẩy mạnh hơn nữa, cùng với trách nhiệm về mặt pháp lý thì trách nhiệm đạo đức sẽ có vai trò không nhỏ đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ trong tương lai. Chính tinh thần, hay ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia sẽ tạo nên sự đồng thuận cao trong việc hạn chế và giảm bớt những tác động tiêu cực của hoạt động này, trong đó có vấn đề môi sinh, môi trường. Điều đó là cần thiết, bởi môi trường không đơn thuần là môi trường vật thể mà quan trọng hơn đó là không gian sống của con người. Chúng ta hành xử với môi trường cũng chính là hành xử với đồng loại, với con người. Do đó, đạo đức là yếu tố được đưa lên hàng đầu.
Hai là, trách nhiệm đạo đức của các tổ chức, cá nhân ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống đối với sự tồn tại và phát triển của chính bản thân con người
Trên thực tế, trách nhiệm này nhấn mạnh nhiều hơn đến hậu quả trực tiếp của những hành vi mà một thực thể gây ra cho con người xung quanh. Chúng ta đang nói đến những hành vi gây nên những hậu quả tiêu cực cho con người do hoạt động khoa học, công nghệ đem lại. Cụ thể, ở đây chúng ta bàn đến trách nhiệm của con người đối với con người, đối với xã hội trong hai lĩnh vực gây nhiều chú ý nhất, đó là lĩnh vực công nghệ thông tin và lĩnh vực công nghệ sinh học.
Ở lĩnh vực công nghệ thông tin, trên bình diện xã hội, phát triển khoa học, công nghệ, bùng nổ thông tin và những vấn đề toàn cầu cũng như sự ra đời của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là văn minh màn hình đang làm cho thế giới trở nên gần gũi và hiểu biết nhau hơn. Trong quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hóa, con người có điều kiện mở rộng tầm nhìn, học hỏi, lựa chọn, tiếp thu những cái tốt cái đẹp của kho tàng văn hóa nhân loại.
Tuy nhiên, chính sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhất là sự bùng bổ về công nghệ thông tin đã và đang khiến cho nội tâm của con người trở nên nghèo nàn, sự giao cảm giữa mỗi cá nhân với thế giới bên ngoài trở nên hời hợt, những khoảng trống, sự thiếu hụt trong cấu trúc nhân cách như mối đồng cảm, sự quan tâm đến người khác... xuất hiện ngày càng nhiều. Khi quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng bị suy yếu, lỏng lẻo, con người sẽ cảm thấy cô đơn, thậm chí chai lỳ trước đau khổ hay hạnh phúc của đồng loại. Sự thâm nhập và tiếp cận văn hoá không lành mạnh thông qua mạng Internet đã gây ra những vấn đề bức xúc về mặt đạo đức như chủ nghĩa thực dụng, tâm lý hưởng thụ, sống gấp, chạy theo đồng tiền... của một bộ phận dân cư, đặc biệt là trong tầng lớp thanh thiếu niên. Đến lượt mình, những biểu hiện có tính phương Tây hoá đó sẽ “gặm nhấm”, làm mai một dần các giá trị định hướng nhân cách mang bản sắc dân tộc.
Hơn nữa, trong điều kiện hiện này, ẩn chứa một nguy cơ, thông qua mạng lưới truyền thông hiện đại, qua mạng máy tính toàn cầu, các nước có công nghệ thông tin tiên tiến, tiến hành cuộc thẩm thấu văn hóa, tuyên truyền chế độ xã hội, hoặc tuyên truyền những lập trường đối địch, gây nhiễu loạn đối với hệ thống tin tức chính trị, xã hội của quốc gia đối lập, gây nên xung đột dân tộc, sắc tộc, xung đột tôn giáo, kích động những hành động phá hoại của quần chúng, khơi dậy những mâu thuẫn xã hội, từ đó tạo ra những mối đe dọa an ninh xã hội của nước đó.
Không chỉ an ninh xã hội, an ninh kinh tế, an ninh quân sự của mỗi nước cũng bị đe dọa nghiêm trọng bởi sự phát triển của công nghệ thông tin. An ninh quân sự gắn liền với sự sống còn của một quốc gia và nó là một lĩnh vực tuyệt mật. Do đó, ngày nay, mục tiêu tấn công đầu tiên của các loại vũ khí thông tin thường là các trung tâm máy tính của lực lượng vũ trang, các xí nghiệp công nghiệp quốc phòng, các hệ thống thông tin liên lạc quân sự và hệ thống quản lý nhà nước. Với việc nối mạng Internet toàn cầu, vũ khí