Tiếp Tục Quán Triệt, Thực Hiện Tốt Cơ Chế Lãnh Đạo Xây Dựng Khu Vực Phòng Thủ, Phát Huy Vai Trò, Trách Nhiệm Của Các Thành Phần Trong Cơ Chế Đối


đồng chí trong và ngoài quân đội, công an, bộ đội biên phòng. Vì vậy, trên cơ sở bồi dưỡng kiến thức toàn diện, đối với những đồng chí cấp ủy viên trong quân đội, công an cần chú trọng bồi dưỡng kiến thức về KT, văn hóa, XH… nhất là các kiến thức về quản lý nhà nước về QP, AN, xây dựng KVPT. Đối với những đồng chí ngoài quân đội và công an cần tập trung bồi dưỡng kiến thức về QP, QS, năng lực về quản lý KT - XH kết hợp với QP, AN, quản lý, xây dựng và hoạt động của KVPT.

Nâng cao năng lực nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ QP, AN và năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết trên các lĩnh vực được phân công, nhất là đối với lực lượng nòng cốt trong xây dựng KVPT. Trên cơ sở các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của đảng ủy quân khu, đảng ủy Bộ đội Biên phòng, Đảng ủy Công an Trung ương và nghị quyết của tỉnh ủy về xây dựng KVPT, các đảng ủy cơ quan QS, bộ đội biên phòng, công an tỉnh cần chủ động xây dựng nghị quyết lãnh đạo đơn vị thực hiện nhiệm vụ trong từng năm, từng giai đoạn; kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn để tham mưu, đề xuất bổ sung, hoàn chỉnh các chương trình, kế hoạch, phương án xử lý các tình huống QP, AN và xây dựng KVPT. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đảng ủy cơ quan QS, biên phòng, công an tỉnh với cấp ủy, chính quyền tỉnh, với đảng ủy cấp trên và các ban ngành, đoàn thể ở địa phương; nêu cao trách nhiệm trong hướng dẫn và phát huy vai trò của các ban ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị thuộc quyền thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ QP, AN và xây dựng KVPT.

Hai là, xây dựng cơ quan QS, bộ đội biên phòng, công an tỉnh vững mạnh toàn diện thực sự là nòng cốt trong tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tỉnh, hướng dẫn các ban ngành, đoàn thể các cấp về công tác QP, AN và tổ chức lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị thuộc quyền thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.


Cơ quan QS, bộ đội biên phòng, công an tỉnh có vai trò quan trọng, là nòng cốt trong tham mưu cho tỉnh ủy, chính quyền tỉnh về nhiệm vụ QP, AN và xây dựng KVPT. Để xây dựng các cơ quan này vững mạnh, tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy cần phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy, Cục Chính trị, Bộ Tham mưu các quân khu, Bộ đội Biên phòng, Đảng ủy Công an Trung ương và Cục Xây dựng lực lượng Bộ Công an kiện toàn về tổ chức, biên chế; vững mạnh về chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, nhân viên có phẩm chất tốt, trách nhiệm cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần đoàn kết, nỗ lực, khắc phục khó khăn, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Xây dựng cơ quan quân sự, bộ đội biên phòng, công an tỉnh phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, chủ trương của trên, tình hình thực tế tại địa phương; trong đó cần đặc biệt quan tâm xây dựng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong tham mưu, đề xuất, là trung tâm chỉ huy, hiệp đồng, hướng dẫn các cơ quan, ban ngành và chỉ huy các đơn vị trực thuộc, các cơ quan QS cấp huyện, cấp xã thực hiện nhiệm vụ xây dựng KVPT. Coi trọng đổi mới, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là trình độ tham mưu, khả năng chỉ huy hiệp đồng tác chiến trong KVPT của đội ngũ sĩ quan các cấp; gắn xây dựng tổ chức đảng với xây dựng cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ với rèn luyện đội ngũ đảng viên. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, chủ chốt, đặc biệt đối với Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự, Bộ đội Biên phòng tỉnh, Giám đốc Công an tỉnh, phải là những cán bộ tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ, vừa là các “tư lệnh ngành” vừa là những chuyên gia sắc sảo, có tầm nhìn xa, trông rộng, dự đoán được những phát triển mới của tình hình để có những ý kiến tham mưu xác đáng, kịp thời và là chỗ dựa thực sự tin cậy của tỉnh ủy và chính quyền tỉnh trong lĩnh vực QP, AN và xây dựng KVPT.

Ba là, lãnh đạo xây dựng các đơn vị bộ đội địa phương cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững mạnh về chính trị, nâng cao


trình độ, sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu. Chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quan điểm, đường lối QS, QP của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ QS, QP địa phương, nhiệm vụ của đơn vị; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, trên cơ sở đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng phát triển cán bộ QS là người địa phương, con em các dân tộc thiểu số. Quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, vũ khí trang bị, ưu tiên các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, trực sẵn sàng chiến đấu, đơn vị đóng quân trên địa bàn trọng điểm về QP, AN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với khả năng, ngân sách của địa phương. Tăng cường các biện pháp quản lý, rèn luyện, giữ nghiêm kỷ luật, xây dựng chính quy, chấp hành nghiêm các các quy định về trực chỉ huy, trực ban, trực chiến, trực sẵn sàng chiến đấu của các cơ quan, đơn vị. Phát huy vai trò nòng cốt trong huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ, phòng chống thiên tai, địch họa; giữ vững ANCT, TTATXH ở địa phương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.

Bốn là, lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh, rộng khắp, theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân cử, dân chăm lo”, ở đâu có nhân dân, ở đó có DQTV, đảm bảo số lượng hợp lý, tổ chức biên chế phù hợp theo Luật Dân quân tự vệ; có chất lượng chính trị, trình độ kỹ chiến thuật ngày càng cao, là nòng cốt trong bảo vệ trị an ở cơ sở, bảo vệ sản xuất, phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa và các sự cố khác xảy ra trong KVPT. Xây dựng phải toàn diện, cả lực lượng DQTV nòng cốt và rộng rãi. Phát huy vai trò của ban chỉ huy QS xã, phường, thị trấn, tăng cường quản lý theo địa bàn cơ sở, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo, dạy nghề,... nơi có tổ chức DQTV. Đối với các tỉnh ven biển, có nhiều hải đảo như Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình cần chú trọng xây dựng lực lượng DQTV biển, khi cần thiết có thể tổ chức lực lượng DQTV


Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ giai đoạn hiện nay - 21

thường trực. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quan tâm xây dựng các tổ chức Đoàn thành niên, công đoàn, phụ nữ; làm tốt công tác phát triển đảng viên, khi có đủ điều kiện thì tổ chức chi bộ đơn vị DQTV để tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp từ cấp ủy địa phương.

Năm là, lãnh đạo xây dựng lực lượng DBĐV vững mạnh

Xây dựng lực lượng DBĐV (gồm quân nhân dự bị và phương tiện kĩ thuật) giữ vai trò rất quan trọng nhằm xây dựng tiềm lực QS, QP vững mạnh, sẵn sàng huy động, bổ sung cho lực lượng thường trực khi đất nước có chiến tranh; là biểu hiện cụ thể của việc quán triệt quan điểm về sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Để xây dựng lực lượng này vững mạnh, các tỉnh ủy cần quán triệt tốt các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhận thức rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng lực lượng DBĐV, từ đó có những chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát, đúng, phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế của địa phương. Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng lực lượng DBĐV. Xây dựng lực lượng DBĐV cần nắm vững phương châm: “gọn đơn vị, gọn địa bàn, đúng chuyên nghiệp QS, chuyên môn kỹ thuật cần thiết”; xây dựng phải toàn diện cả về chính trị, tinh thần, tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, trình độ kĩ thuật, chiến thuật, chuyên môn nghiệp vụ, trang bị, khả năng bảo đảm hậu cần kĩ thuật... Lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan chuyên môn làm tốt công tác tạo nguồn, quản lý nguồn và đăng ký, sắp xếp, quản lý chặt chẽ cả về con người và phương tiện kỹ thuật, ở mọi thành phần KT và các địa bàn dân cư. Chú trọng xây dựng lực lượng là sĩ quan quân đội phục viên, sĩ quan dự bị, hạ sĩ quan, chiến sĩ xuất ngũ, cán bộ chuyên môn kỹ thuật của nền KT. Có chính sách phù hợp, ưu tiên đãi ngộ về phụ cấp, việc làm, điều kiện lao động, tạo nhiều công ăn việc làm cho nhân dân, thực hiện “ly nông không ly hương”, đảm bảo lực lượng tại chỗ luôn hùng hậu, có chất lượng cao. Phối hợp chặt chẽ với các


đơn vị chủ lực trong công tác huấn luyện lực lượng DBĐV đảm bảo chất lượng, hiệu quả cao.

Sáu là, lãnh đạo xây dựng lực lượng công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, ngăn chặn các loại tội phạm, các hiện tượng vi phạm pháp luật, bảo đảm ANCT, TTATXH, bảo đảm an toàn cho cuộc sống của nhân dân và phục vụ hiệu quả nhiệm vụ phát triển KT - XH.

Xây dựng lực lượng công an các cấp cần quán triệt đúng tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 15 tháng 3 năm 2018 của Bộ Chính trị (khóa XII), về “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, thực hiện phương châm “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở”. Tập trung chỉ đạo xây dựng các lực lượng, đơn vị trực tiếp chiến đấu như: Cảnh sát cơ động, Cảnh sát hình sự, Cảnh sát phòng, chống tội phạm về ma túy, bảo đảm AN mạng, phòng, chống tội phạm lợi dụng công nghệ cao…; xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và năng lực toàn diện, xứng đáng là lực lượng vũ trang trọng yếu, tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đấu tranh phòng chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; duy trì nghiêm kỷ luật, chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm, kiên quyết thanh lọc đội ngũ, đưa ra khỏi lực lượng những trường hợp không đủ tiêu chuẩn hoặc bị cám dỗ, sa ngã trước sự mua chuộc của các thế lực thù địch và các phần tử xấu, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân. Tích cực phối hợp với các cấp, các ngành, nhất là cơ quan QS, bộ đội biên phòng, phát huy vai trò trách nhiệm trong tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương và tham gia xây dựng KVPT.


4.2.5. Tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt cơ chế lãnh đạo xây dựng khu vực phòng thủ, phát huy vai trò, trách nhiệm của các thành phần trong cơ chế đối với nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ

Cơ chế lãnh đạo giữ vai trò quan trọng, đảm bảo sự vận hành một cách thống nhất, đồng bộ của các tổ chức, thành phần trong cơ chế, nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng KVPT đạt kết quả cao nhất. Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) chỉ rõ: “Xây dựng và hoạt động của khu vực phòng thủ đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của tỉnh ủy, thành ủy, sự quản lý điều hành của chính quyền; cơ quan quân sự phối hợp với cơ quan công an và các ban ngành, đoàn thể ở địa phương làm tham mưu và tổ chức thực hiện” [11, tr.3]. Đây là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lên tầm cao mới của nghệ thuật QS Việt Nam trong tình hình mới. Bởi vì, nhiệm vụ xây dựng KVPT đòi hỏi rất cao về khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền, về vai trò tham mưu của các ban, ngành, đoàn thể và trình độ tổ chức chỉ huy, phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng trong KVPT. Để thực hiện tốt cơ chế lãnh đạo đó trên thực tế và phát huy cao độ vai trò các thành phần của cơ chế trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng KVPT cần quan tâm thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của tỉnh ủy đối với nhiệm vụ xây dựng KVPT

Trong cơ chế lãnh đạo xây dựng KVPT, tỉnh ủy vừa là thành viên của cơ chế, vừa là hạt nhân lãnh đạo cơ chế. Chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của tỉnh ủy có ý nghĩa quyết định đối với mọi mặt hoạt động của nhiệm vụ xây dựng KVPT. Quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ QP, AN, hướng dẫn của Quân ủy Trung ương về hoạt động lãnh đạo của cấp ủy địa phương trong xây dựng, hoạt động KVPT. Các tỉnh ủy phải coi lãnh đạo xây dựng KVPT là một nhiệm vụ trọng yếu trong hoạt động lãnh đạo của mình, từ đó xác định trách nhiệm của tập


thể tỉnh ủy và các tỉnh ủy viên trong xây dựng nghị quyết, xác định chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo sát thực, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương trong từng giai đoạn. Trong đó, cần cụ thể hóa cơ chế chung thành những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ của các cấp, các ngành, các cơ quan, đoàn thể, các lực lượng của địa phương, đặc biệt là xác định nguyên tắc tổ chức, cơ chế chỉ đạo, chỉ huy giữa các lực lượng trong phòng, chống các tình huống cụ thể như: gây rối, biểu tình, bạo loạn lật đổ, cứu hộ, cứu nạn, phòng, tránh thiên tai, hỏa hoạn, bão lũ... và các tình huống quốc phòng.

Xây dựng, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của của tập thể cấp ủy, từng cấp ủy viên và các mối quan hệ giữa cấp ủy đảng với chính quyền, cơ quan, đoàn thể các cấp trong các mặt hoạt động xây dựng KVPT và trong các tình huống về QP, AN ở địa phương. Thường xuyên giữ mối liên hệ, phối hợp chặt chẽ và tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh các quân khu, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng KVPT. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với mọi tổ chức, mọi nhiệm vụ, mọi lực lượng trong KVPT, phân công đồng chí cấp ủy viên phụ trách thường xuyên theo dõi, đôn đốc và có sự chỉ đạo kịp thời trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhất là khi xảy ra các tình huống về QP, AN.

Thứ hai, phát huy vai trò của chính quyền các cấp trong chỉ đạo, quản lý, điều hành xây dựng KVPT.

Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương, tỉnh ủy cần lãnh đạo, phát huy vai trò, chức năng quản lý, điều hành của HĐND, UBND tỉnh, nhất là trong lĩnh vực có tính phức tạp, cơ mật, tính biến động cao, đòi hỏi sự chỉ đạo, điều hành khẩn trương, quyết đoán, kịp thời như nhiệm vụ xây dựng và hoạt động KVPT. Sự điều hành của chính quyền đối với việc xây dựng KVPT


phản ánh bước cụ thể hóa sự lãnh đạo của Đảng, từ việc lãnh đạo, chỉ đạo Hội đồng nhân dân tỉnh ra nghị quyết về xây dựng KVPT; lãnh đạo, chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh cụ thể hóa thành các văn bản, chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch, chương trình hành động để thống nhất quản lý, điều hành mọi mặt hoạt động xây dựng KVPT. Chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện quy chế hoạt động của các ban ngành, đoàn thể; trực tiếp giao nhiệm vụ cho các tổ chức, các lực lượng và chủ trì việc phối hợp, hiệp đồng giữa các ban ngành, đoàn thể địa phương theo phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, nhất là trong những tình huống khó khăn, phức tạp như xử lý các điểm nóng gây rối, bạo loạn, thiên tai, địch họa và các tình huống khác.

Thứ ba, phát huy vai trò trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, nhất là cơ quan quân sự, công an trong tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng KVPT

Các cơ quan, ban, ngành đoàn thể ở địa phương có vai trò quan trọng, là nơi tham mưu, đề xuất với tỉnh ủy, chính quyền tỉnh xây dựng nghị quyết, chủ trương, biện pháp, kế hoạch xây dựng KVPT, đồng thời cũng là nơi trực tiếp hướng dẫn, phối hợp, thống nhất hành động và tổ chức thực hiện, đưa nghị quyết của cấp uỷ thành hiện thực. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức này, tỉnh ủy cần làm tốt các mặt công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ, công tác chính sách…, đồng thời có những nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp.

Trước hết, tỉnh ủy, chính quyền tỉnh phải nâng cao và phát huy năng lực tham mưu, đề xuất và vai trò, trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Bộ Chỉ huy QS tỉnh và công an tỉnh. Bởi vì, đây là các cơ quan chuyên ngành, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về QP, AN ở địa phương, là cánh tay phải của cấp ủy, chính quyền địa phương trong thực hiện các nhiệm vụ QP, AN và xây dựng KVPT. Chỉ thị 07-CT/TW ngày 03 tháng 10 năm 2011 của Ban Bí thư đã chỉ rõ: “Tăng cường lãnh đạo xây

Xem tất cả 198 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí