Vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam - 2

Bảng 3.19: Tổng hợp chi tiêu từ NSNN cho ASXH không đóng góp và một số chính sách xã hội 112

Bảng 4.1: Ý kiến của nông hộ về khả năng tham gia vào hệ thống BHTN từ khía cạnh tài chính của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh 127

Bảng 4.2: Đề xuất điều chỉnh TGXHTX đến năm 2020 của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh 129

Bảng 4.3: Tổng số đối tượng sống tại cộng đồng năm 2012 và 2013 130

Bảng 4.4: Ý kiến về điều chỉnh các chế độ TCXH đột xuất đến năm 2020 132

Bảng 4.5: Ý kiến về phối hợp chính sách của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh 136

Bảng 4.6: Các biện pháp tăng cường vai trò của Nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân những năm tới 142

Bảng 4.7: Mong muốn của người dân về mức đóng góp và nhận được hỗ trợ của Nhà nước để tham gia vào hệ thống BHTN 144

Bảng 4.8: Đề xuất mức hỗ trợ tài chính để nông dân tham gia BHYTTN những năm 2013-2015 145

Bảng 4.9: Dự báo nhu cầu kinh phí cho TGXH theo mục tiêu Nghị quyết 15- NQ/TW 146

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

HÌNH:

Hình 2.1: Vòng đời và những rủi ro trong cuộc sống của con người 29

Vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam - 2


HỘP:

Hộp 3.1: Kết quả một số lĩnh vực công tác Hội Chữ thập đỏ trong toàn quốc 2007 - 2012 87


BIỂU ĐỒ:

Biểu đồ 3.1: Tình hình nhận TGXHĐX của các hộ thuộc 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh từ năm 2009 đến năm 2011 104

Biểu đồ 3.2: Đánh giá của cán bộ quản lý về nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong thực thi hệ thống an sinh xã hội không theo nguyên tắc đóng - hưởng cho nông dân 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh 115

Biểu đồ 3.3: Đánh giá của cán bộ quản lý về lý do nông dân chưa tham gia BHXHTN, BHYTTN của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. 116

Biểu đồ 3.4: Nhận định của nông hộ về BHXHTN, BHYTTN của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh 116


MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Thực tiễn sinh động trong gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã khẳng định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta là đúng đắn, bước đi là thích hợp. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, những hệ luỵ hữu cơ của sự phát triển kinh tế thị trường như xu hướng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng giữa khu vực nông thôn với khu vực thành thị ngày cũng có xu hướng gia tăng.

Để bảo đảm ổn định hệ thống chính trị và sự phát triển bền vững của đất nước theo con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đòi hỏi Nhà nước càng phải xây dựng và phát triển nhanh chóng hệ thống an sinh xã hội (ASXH), thay cho nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, nhằm điều hoà các quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân trong cộng đồng và qua đó điều hoà các mâu thuẫn xã hội đã, đang và sẽ phát sinh.

Từ khi giành được độc lập, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với hơn 80% dân số là nông dân. Mặc dù hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nhưng trong một tương lai không gần tỷ lệ ấy cũng chưa thể giảm xuống dưới 40%. Điều đó nói lên rằng, nông dân vẫn là một lực lượng lao động hùng hậu và đặc biệt vẫn luôn luôn là lực lượng chính trị xã hội hết sức quan trọng, bảo đảm ổn định xã hội và an ninh Tổ quốc.

Vì tính chất đặc thù của lao động và sản phẩm lao động nông nghiệp nước ta chưa cao nên tỷ trọng đóng góp của khu vực này vào GDP còn thấp, phải chăng vì vậy mà trong một thời gian dài các nhà hoạch định chính sách đã để quên, để chậm vấn đề ASXH đối với nông dân, hoặc chỉ tiếp cận vấn đề như là sự thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN mà chưa đặt nó trong phạm trù quản lý nhà nước?

Đến những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để giải quyết vấn đề ASXH nói chung và ASXH đối với nông dân nói


riêng. Nhiều chính sách về bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), cứu trợ xã hội (CTXH), ưu đãi xã hội (ƯĐXH) đã được Nhà nước sửa đổi, bổ sung và luật hoá. Tuy nhiên, hệ thống chính sách ASXH nói chung và ASXH đối với nông dân nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót, bất cập, chưa đáp ứng kịp những biến động kinh tế - xã hội của đất nước, đòi hỏi phải được nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện một cách khoa học.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về ASXH và ASXH đối với nông dân ở Việt Nam nhưng các kết quả của nó, do nhiều lý do khác nhau, chưa hoặc chậm đi vào đời sống đất nước. Xuất phát từ những nội dung trên, bản thân tác giả nhận thấy việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân hiện nay là việc làm cấp thiết của nước ta. Đó cũng là lý do để tác giả chọn đề tài: “Vai trò của Nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị.

2. Mục tiêu nghiên cứu của Luận án

2.1. Mục tiêu chung

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn các nước và Việt Nam hiện nay, Luận án đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân ở Việt Nam những năm tới.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Làm rõ những nội dung lý luận vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới.

- Phân tích thực trạng vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân ở Việt Nam; chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân ở Việt Nam.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân ở Việt Nam những năm tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: là vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân. Tuy nhiên, vai trò nhà nước về ASXH đối với nông dân có phạm vi rộng. Luận án này sẽ tập trung vào vai trò nhà nước trong xây dựng hệ thống luật pháp, cơ chế


chính sách, tổ chức phối hợp chính sách và tổ chức quản lý, kiểm tra giám sát nhằm thiết lập hệ thống và tạo các điều kiện đảm bảo cho hệ thống ASXH vận hành.

Về thiết lập hệ thống ASXH, Luận án xem xét hệ thống ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng và ASXH không dựa trên nguyên tắc đóng góp.

Để tạo lập các điều kiện nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân, Luận án sẽ tập trung vào phân tích các chủ trương, quan điểm của Đảng, khả năng kinh tế đảm bảo cho nông dân tham gia và khả năng đảm bảo tài chính của Nhà nước, về năng lực bộ máy và nhận thức của người nông dân về ASXH.

Về đối tượng nông dân, Luận án tập trung phân tích đối tượng người nông dân vùng Bắc Trung Bộ là vùng kinh tế phát triển ở mức trung bình so với cả nước. Thêm nữa, ở đây có cả người nông dân vùng ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi, nên có thể khảo sát được hầu hết các đối tượng nông dân nước ta.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn cả nước, song số liệu điều tra minh chứng thông qua điều tra khảo sát ở 3 tỉnh Bắc Trung Bộ là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.

- Về thời gian: Sử dụng các thông tin, tư liệu từ năm 2000 đến năm 2012, đề xuất giải pháp cho đến những năm 2020.

4. Những đóng góp của Luận án

- Xây dựng khung lý thuyết vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân thông qua tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, kinh nghiệm thực tiễn của một số nước.

- Thông qua hệ thống tài liệu thứ cấp từ các bộ, ngành có liên quan và số liệu điều tra, khảo sát phỏng vấn tại ba tỉnh Bắc Trung Bộ là Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa, Luận án đã phân tích đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân ở Việt Nam, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế.

- Khuyến nghị các phương hướng và giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước về ASXH đối với nông dân ở Việt Nam những năm tới.


5. Kết cấu Luận án

Gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục về thông tin, tư liệu, kết quả điều tra khảo sát và nội dung bốn chương của Luận án.

Chương 1: Tổng quan và phương pháp nghiên cứu vai trò của Nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân.

Chương 2: Vai trò của Nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn.

Chương 3: Thực trạng vai trò của Nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam hiện nay.

Chương 4: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam những năm tới.


Chương 1

TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NÔNG DÂN


1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI NÔNG DÂN

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Thứ nhất, những nghiên cứu liên quan đến vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng pháp luật và các thể chế ASXH đối với nông dân.

Theo giáo sư Han Juergen Roesner, trường đại học Cologne của Cộng hòa Liên bang Đức, mọi người đều có nguy cơ phải đối mặt với rủi ro trong cuộc sống: rủi ro tự nhiên (bão lụt, hạn hán...); rủi ro môi trường (ô nhiễm); rủi ro sức khỏe (dịch tả, ốm đau, bệnh tật); rủi ro vòng đời (tuổi già); rủi ro kinh tế (tai nạn lao động, khủng hoảng và nghèo đói); rủi ro xã hội (tội phạm, khủng bố, tai nạn giao thông); và rủi ro chính trị (đảo chính, xung đột sắc tộc, thay đổi thể chế) [103]. Việc tham gia vào hệ thống ASXH là biện pháp tích cực nhằm giúp cho những cá nhân giảm thiểu những rủi ro trong cuộc sống và đảm bảo sự phát triển bền vững của cộng đồng (J. Ignacio Conde-Ruiz, Jay H. Hong và cộng sự...). [106], [107].

Các nghiên cứu của Martin Gonzalez-Eiras và Dirk Niepelt (2008) [111], Jean-Olivier Hairault và Francois Langot (2008) [108]... cho thấy chính phủ ở các quốc gia khác nhau lựa chọn những mô hình ASXH trên nguyên tắc mà Bismarck hay Beveridge đưa ra tùy thuộc vào chính sách xã hội của từng quốc gia, vào thu nhập của người dân và thậm chí cả ngân sách nhà nước (NSNN). J. Ignacio Conde- Ruiz trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng, các quốc gia xây dựng ASXH theo quan điểm của Beveridge thì có xu hướng những người nhận được hưu trí thường thấp hơn các quốc gia xây dựng hệ thống ASXH theo quan điểm của Bismarck. Từ đó J. Ignacio Conde-Ruiz đưa ra kết luận các quốc gia xây dựng hệ thống ASXH theo quan điểm của Bismarck có sự bất bình đẳng thu nhập thấp hơn so với những quốc gia xây dựng hệ thống ASXH theo quan điểm của Beveridge [106]. Torben M. Andersen (2008) chỉ ra rằng, vì tuổi thọ của con người ngày càng dài hơn [115]. Theo dự báo của Liên hợp quốc (UN, 2004; EU, 2006; IMF, 2004) [116], [102],


[105], tuổi thọ đang tăng lên ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia châu Âu, tuổi thọ trung bình sẽ tăng từ 73,8 năm 2005 lên 81 vào năm 2050, điều này đòi hỏi các quốc gia phải điều chỉnh lại hệ thống ASXH dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng. Jon Barnett và cộng sự (2007) chỉ ra rằng, sự biến đổi về điều kiện khí hậu đem lại những rủi ro ngày càng nhiều hơn cho cuộc sống con người. Vai trò của chính phủ trong việc khắc phục thiên tai cũng như hỗ trợ những đối tượng bị tác động trực tiếp từ thiên tai ngày càng trở nên quan trọng [110].

J. Ignacio Conde-Ruiz (2003) cho rằng, việc đảm bảo sự vận hành của ASXH theo hệ thống Bismarck chỉ được duy trì bởi những những đối tượng tham gia có thu nhập cao, trong khi với những đối tượng có thu nhập thấp, để đảm bảo ASXH thì chính phủ của quốc gia đó nên theo quan điểm của Beveridge [106]. Điều này cũng nhận được sự đồng tình của Jay H. Hong và cộng sự (2007) [107]...

Valerie Schmit (2010) [117] đã chỉ ra 2 hợp phần của ASXH bao gồm bảo hiểm và trợ giúp. Tuy nhiên, trong tình cảnh nhiều quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số, nên nguy cơ đảm bảo tài chính thực hiện ASXH theo nguyên tắc đóng - hưởng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thậm chí có thể ảnh hưởng xấu tới quỹ lương hưu của BHXH [111]. Chính vì vậy, việc điều chỉnh mức đóng - hưởng khi tham gia BHXH là điều tất yếu các quốc gia phải thực hiện... Tuy nhiên, việc điều chỉnh này lại rất đa dạng và không đồng nhất giữa các quốc gia. Điểm mấu chốt trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về ASXH là phụ thuộc vào ngân sách, khả năng tài chính của người dân và mục tiêu chính sách xã hội mà chính phủ đó theo đuổi.

Cùng với quá trình đô thị hóa, rất nhiều khu công nghiệp và khu đô thị được hình thành và phát triển ở vùng nông thôn, điều này làm cho những người già trong khu vực nông thôn cảm thấy trở nên bất ổn bởi sự tan rã của hệ thống làng xã. Còn đối với những người lao động di cư, thì các vấn đề đảm bảo cho lao động được tham gia vào hệ thống bảo hiểm, thụ hưởng thỏa đáng các chương trình trợ giúp xã hội (TGXH) và vấn đề đảm bảo nhà ở cho những đối tượng này tại nơi đô thị là vấn đề đang được quan tâm của cả những nhà nghiên cứu, lẫn chính trị gia. Để đảm bảo cho người lao động di cư ra thành phố có khả năng tham gia đầy đủ vào hệ thống BHXH, Trung Quốc đang tiến hành chuyển đổi hình thức đóng góp tham gia


BHXH dưới dạng PAYG (pay-as-you-go: hưởng theo đóng góp của bạn) sang hình thức tài khoản cá nhân [6].

Ở Hàn Quốc, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống ASXH cho cả khu vực chính thức và phi chính thức được bổ sung, hoàn thiện theo thời gian. Hệ thống BHYT đầu tiên được hình thành năm 1963 và dành cho lao động trong khu vực công chức. Đến năm 1977, các doanh nghiệp có lao động từ 500 người trở lên đều phải tham dự hệ thống này, từ năm 1979 mỗi doanh nghiệp có từ 300 lao động trở lên phải tham dự vào hệ thống này và đến năm 1981, cứ từ 100 lao động trở lên thì doanh nghiệp phải đảm bảo cho lao động được quyền tham gia vào hệ thống BHYT. Và từ năm 1988 đến nay, cứ có từ 5 lao động trở lên thì doanh nghiệp phải tham gia vào hệ thống BHYT dù họ làm trong khu vực chính thức hay không miễn là có hợp đồng lao động. Đối với khu vực phi chính thức, hệ thống BHYT cho khu vực phi chính thức được ban hành và từ những năm 2000 đến nay Hàn Quốc đã tiến hành sáp nhập hai hệ thống bảo hiểm cho khu vực chính thức và phi chính thức với nhau [5].

Đối với Đài Loan, chương trình BHXH cho công chức, công an và bộ đội được thực hiện từ những năm 1950, hệ thống BHXH này cũng là bắt buộc với các doanh nghiệp có từ 20 lao động trở lên. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, từ năm 1970 nếu doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên thì chủ các doanh nghiệp phải đảm bảo cho lao động của họ được tham gia vào hệ thống BHXH. Hệ thống BHYT cho người nông dân được triển khai từ năm 1989. Cho đến năm 1990 những đối tượng có thu nhập thấp khác chưa được tham gia và hệ thống BHYT. Đến năm 1995, hệ thống BHYT cho tất cả các nhóm đối tượng mới được hình thành và đến năm 2005 hệ thống BHYT toàn dân mới được thực hiện [5].

Là một quốc gia có đông dân số bậc nhất thế giới là Trung Quốc, với hơn 800 triệu nông dân, những năm cải cách vừa qua, pháp luật về ASXH của Trung Quốc cũng đã đặt vấn đề đảm bảo ASXH đối với nông dân dưới các hình thức bảo BHXH, CTXH, phúc lợi xã hội và tương tế xã hội, cá nhân dành dụm tích lũy để bảo đảm và phát triển chế độ y tế hợp tác tại nông thôn (BHXHVN 2000) [6].

Thứ hai, những nghiên cứu liên quan đến vai trò của Nhà nước trong việc phối hợp các chính sách kinh tế - xã hội với chính sách ASXH đối với nông dân.

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 02/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí