Nâng Cao Chất Lượng Đời Sống Văn Hóa Và Giải Quyết Tốt Các Vấn Đề An Sinh Xã Hội Cho Nông Dân Vùng Đồng Bằng Sông Hồng Trong Bối Cảnh Cách Mạng

157


nhiệm vụ chính trị của đảng bộ địa phương trong từng thời kỳ. Để xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của xã, trước hết, các đảng bộ cần phải có khả năng nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 52-NQ-TW về một số chủ trương chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (27/9/2019), nhận thức sâu sắc tác động toàn diện của CMCN 4.0 đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn trên cả hai phương diện tác động tích cực và tiêu cực; về xu hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, về xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh; về chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn…. Đồng thời, đảng ủy, đảng bộ các cấp cần phải có năng lực tư duy và khả năng dự báo, nắm chắc đặc điểm, tình hình, tiềm năng, thế mạnh của các địa phương. Nắm chắc tình hình, đặc điểm của xã và đảng bộ, đồng thời có khả năng dự báo đúng sẽ giúp cho cấp uỷ xác định được những tiềm năng, thế mạnh, những điều kiện thuận lợi, những khó khăn, hạn chế của xã và đảng bộ. Nó giúp cho cấp uỷ nhận thức được ở xã mạnh, yếu thế nào đang thiếu mặt nào, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân trong xã là gì và đảng bộ phải làm gì để tận dụng được những thời cơ và thuận lợi, vượt qua những khó khăn, hạn chế nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, biến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực sinh động trong đời sống.

Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ các cấp ở nông thôn vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0. Năng lực này thể hiện ở những khả năng cơ bản sau: Lãnh đạo công tác tư tưởng, làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thấm sâu trong mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng, tạo sự thông suốt về tư tưởng, quyết tâm, thống nhất về hành động trong toàn đảng bộ và nhân dân trong xã. Cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết, xây dựng và thực hiện các chương trình hành động, kế hoạch công tác cụ thể có tính khả thi cao trong từng thời gian nhất định. Bố trí, sử dụng cán bộ, đảng viên, phân công cấp uỷ viên và cán bộ phụ trách từng mảng công việc, định rõ thời gian, biện pháp thực hiện. Phát huy vai trò, sức mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế-xã hội, trong đó đặc biệt là lãnh đạo phát huy vai trò, hiệu lực của bộ máy chính quyền và các đoàn thể chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ. Tổ chức, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của đảng bộ một cách tích cực và tự giác, tạo ra các phong trào hành động cách mạng của quần chúng

158


trong phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; giữ vững an ninh, quốc phòng; xây dựng hệ thống chính trị và đời sống văn hóa ở cơ sở…

Các đảng ủy, đảng bộ các cấp ở nông thôn vùng ĐBSH cũng cần phải nâng cao năng lực kiểm tra và tổng kết thực tiễn trong bối cảnh mới. Công tác kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức đảng bao gồm nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực hoạt động. Năng lực kiểm tra và tổng kết thực tiễn của cấp ủy, tổ chức đảng thể hiện ở khả năng phát hiện những cái đúng, sai, tốt, xấu, những cái phù hợp, chưa phù hợp; những nhân tố mới, tích cực cần phát huy, những yếu tố lạc hậu, tiêu cực cần đấu tranh ngăn chặn... trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ. Các đảng bộ xã có năng lực kiểm tra và tổng kết thực tiễn tốt còn góp phần tích cực bổ sung hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số ở nông thôn vùng ĐBSH, góp phần cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, xử lý công việc, tiết kiệm thời gian và chi phí, mang lại lợi ích thiết thực cho các cơ quan nhà nước, người dân, doanh nghiệp. Để xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số thì hạ tầng công nghệ thông tin phải đi trước một bước, phải được quan tâm, đầu tư đồng bộ, hiện đại, từ cấp tỉnh đến cấp xã, làm nền tảng để triển khai các ứng dụng trong các cơ quan nhà nước cũng như phục vụ người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân nông thôn. Hoàn thiện hệ thống một cửa điện tử hiện đại, đồng bộ được triển khai từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã. Tăng cường Cổng dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, tiết kiệm thời gian, chi phí, công khai, minh bạch. Hoàn thiện hệ thống phần mềm Quản lý văn bản và Hồ sơ công việc (TD-Office) được triển khai đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã, phục vụ điều hành, xử lý công việc trên môi trường điện tử.

Nâng cao trình độ, năng lực, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nông thôn vùng ĐBSH. Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã khẳng định “Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp” [40, tr.224]. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nông thôn vùng ĐBSH nhằm thích ứng với yêu cầu xây dựng và hoàn thiện chính quyền điện tử các cấp ở nông

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.

159


Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư - 21

thôn. Về trách nhiệm và đạo đức công vụ cần thực hiện mô hình “ba nên” (vui vẻ khi tiếp xúc với dân; xin lỗi dân khi sai; cảm ơn dân khi được tham gia đóng góp ý kiến); “ba cần”(gần dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân; hiểu dân, học dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin; tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của và vận động mọi người làm theo); “ba chống” (chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, địa phương, thiếu trung thực; tham vọng chức quyền, gia trưởng, độc đoán; chia rẽ, bè phái mất đoàn kết nội bộ); “ba không”(không gây phiền hà, sách nhiễu dân; thờ ơ, lãnh đạm trước những bức xúc của dân; đưa hối lộ, đút lót dưới bất kỳ hình thức nào); “ba đúng” (đúng nội quy làm việc của cơ quan; đúng quy trình, đúng hẹn trong tiếp dân và hoàn trả hồ sơ; đúng luật và công tâm khi hoà giải, tranh chấp khiếu kiện). Qua đó cho thấy trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ huyện đến cơ sở trong thực thi công vụ ngày càng được đề cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Ba là, phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện tốt việc giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt là Hội Nông dân các cấp ở nông thôn vùng ĐBSH.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, nhất là đối với những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân (trong trường hợp chính sách, pháp luật đúng mà nhân dân chưa hiểu, chưa đồng tình, thì phải ra sức tuyên truyền, vận động, giải thích, biết chờ đợi nhân dân, không gò ép, áp đặt một cách thô bạo); tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng gần dân, sát cơ sở, phân công trách nhiệm phụ trách địa bàn ấp đối với từng thành viên, qua đó hướng dẫn người dân thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và xây dựng nông thôn hiện đại, văn minh tại địa phương. Mặt trận Tổ quốc có vai trò đoàn kết các lực lượng ở nông thôn tạo thành một mặt trận thống nhất. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được giao nhiệm vụ phát động cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”. Chính vì vậy, xây dựng Mặt trận Tổ quốc vững mạnh là nhằm tạo thành sức mạnh to lớn để tiến hành xây dựng nông thôn mới. Các tổ chức đoàn thể chính trị: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động theo điều lệ của tổ chức mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng các tổ chức đoàn thể chính trị vững mạnh nhằm thu hút, tập hợp hết mọi quần chúng nhân dân vào sinh hoạt trong các đoàn

160


thể phù hợp với lứa tuổi, giới tính, thành phần giai cấp để nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể, phát huy hết khả năng của mọi công dân nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho công cuộc xây dựng nông thôn mới. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị vững mạnh, trước hết xây đội ngũ cán bộ có chất lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có uy tín với quần chúng nhân dân, biết tổ chức, phát động các phong trào. Tạo điều kiện để Hội nông dân tham gia thực hiện các chương trình dự án, tổ chức các hoạt động khuyến nông, dạy nghề, hỗ trợ việc làm, dịch vụ về vốn, vật tư nông nghiệp, tư vấn pháp lý, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật... cho nông dân, hướng dẫn các hình thức hợp tác kinh tế trong nông nghiệp. Nông dân là chủ thể phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nhưng nông dân ở đây không có nghĩa là những nông dân đơn lẻ mà là nông dân được tập hợp trong những tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Việc tập hợp nông dân trong các tổ chức chính trị là nhằm mục đích giác ngộ họ, đoàn kết họ thành một khối để tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp chung, do tất cả mọi người dân sống trong cộng đồng cùng bàn bạc, góp công góp của cùng làm chứ không phải do từng hộ làm riêng lẻ. Vì vậy, xây dựng các tổ chức chính trị ở nông thôn vững mạnh là giải pháp quan trọng cần chăm lo thực hiện ngay từ đầu.

4.2.5. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa và giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội cho nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

4.2.5.1. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Huy động mọi lực lượng và cả hệ thống chính trị tích cực tham gia phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở nông thôn vùng ĐBSH. Tăng cường đổi mới công tác tuyên truyền nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức trong cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành, từ trong các cơ quan nhà nước đến ngoài xã hội, trong cán bộ, đảng viên, đến các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí của văn hóa và nhân tố con người đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như nâng cao nhận thức, tính tự nguyện của cộng đồng, phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của nhân dân trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa; tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai Nghị định số 122/2018/NĐ-CP (17/9/2018), của Chính phủ - hành lang pháp lý quan trọng để nâng cao chất lượng xây dựng các danh hiệu văn hóa. Tổ chức tốt việc bình xét, công nhận, biểu dương, khen thưởng gia đình

161


văn hóa bảo đảm công khai, dân chủ đạt hiệu quả thực chất, khắc phục “bệnh hình thức”, thiếu chiều sâu. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng làng (thôn, bản, phố) văn hóa, xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị. Nâng cao tính tự quản và ý thức trách nhiệm cộng đồng trong việc giữ vững các danh hiệu văn hóa.

Tiếp tục lựa chọn một số mô hình cụ thể, tập trung tạo chuyển biến và sức lan tỏa trong đời sống văn hóa cộng đồng. Đổi mới công tác đánh giá phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, không chỉ căn cứ vào những con số, tỷ lệ, mà còn phải căn cứ vào những đánh giá cụ thể... Chủ động đôn đốc, kiểm tra, phát hiện và khắc phục kịp thời hạn chế... Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo Trung ương phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” xây dựng kế hoạch phối hợp các bộ, ngành trung ương và địa phương triển khai; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động văn hóa theo hướng thiết thực, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm. Tổ chức việc kiểm tra, đánh giá hoạt động của ban chỉ đạo các cấp và đánh giá công tác triển khai tại địa phương cơ sở, định kỳ sơ kết, tổng kết phong trào qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm; xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp; đề ra những mục tiêu, giải pháp phát triển phong trào trong thời gian tiếp theo.

Nâng cao hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” bằng việc tạo sức lan tỏa từ những mô hình tiêu biểu, với những giá trị nhân văn cốt lõi như những tấm gương bí thư chi bộ, trưởng ban công tác mặt trận, tổ trưởng tổ dân phố hay các hạt nhân gia đình văn hóa tiêu biểu; có các chế độ đãi ngộ để tạo động lực thúc đẩy những cá nhân tiêu biểu đó tiếp tục cống hiến cho cộng đồng. Lồng ghép các nhiệm vụ của phong trào vào các phong trào thi đua yêu nước khác của các ban, ngành, đoàn thể; gắn kết chặt chẽ với xây dựng nông thôn mới, huy động mọi nguồn lực và tập trung đầu tư cho văn hóa ngang tầm với đầu tư trong các lĩnh vực khác, tạo đà cho sự phát triển của văn hóa.

Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm văn hóa cơ sở. Nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành trong triển khai, thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; từng thành viên Ban Chỉ đạo được phân công phụ trách địa bàn tăng cường theo dõi, đôn đốc việc thực hiện phong trào.

Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và xây dựng văn hóa công sở. Tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác gia đình và giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình, hướng đến xây dựng văn hóa ứng xử, giao tiếp văn minh trong mỗi

162


gia đình, dòng tộc, cộng đồng dân cư và các công sở, tạo chuyển biến tích cực trong văn hóa, góp phần quan trọng vào sự phát triển của xã hội.

4.2.5.2. Giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội cho nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập cho nông dân vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0.

Trong bối cảnh CMCN 4.0, việc ứng dụng rộng rãi công nghệ 4.0 ảnh hưởng đến vấn đề việc làm, thu nhập và đời sống của nông dân vùng ĐBSH, nguy cơ thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân có xu hướng tăng lên, khoảng cách về thu nhập giữa nông dân công nghệ cao với nông dân truyền thống ngày càng lớn. Để giải quyết tốt vấn đề việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho nông dân vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn vùng ĐBSH.

Trước hết, cần quy hoạch và phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn nông thôn vùng ĐBSH. Về mặt xã hội, phát triển các khu, cụm công nghiệp tại nông thôn là giải pháp tốt nhất để tạo việc làm phi nông nghiệp và tận dụng được nguồn lao động nông thôn trình độ còn hạn chế, bao gồm: việc làm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong khu công nghiệp; việc làm dịch vụ sản xuất, hỗ trợ sản xuất, trao đổi thương mại trong và ngoài khu công nghiệp; việc làm dịch vụ phục vụ sinh hoạt cho người lao động trong khu công nghiệp... Điều này sẽ giúp người nông dân “ly nông bất ly hương”, tạo thêm việc làm lúc nông nhàn và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh phát triển và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ở nông thôn vùng ĐBSH nhằm tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, bao gồm: phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp (máy móc, phân bón, dịch vụ cung ứng giống cây trồng, vật nuôi); dịch vụ thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận chuyển hàng hoá, dịch vụ thông tin truyền thông, nấu ăn phục vụ các đám tiệc.… Việc phát triển dịch vụ, thương mại khu vực nông thôn không những thúc đẩy kinh tế các địa phương phát triển, mà còn giúp nhiều hộ dân chuyển đổi ngành nghề, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống ở nông thôn vùng ĐBSH. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã và đang tạo việc làm, tăng thu nhập cho nhiều lao động nông thôn, nhất là đối tượng lao động nữ đã quá tuổi được

163


tuyển dụng làm việc tại các doanh nghiệp, giúp họ có điều kiện cải thiện cuộc sống, cải thiện kinh tế cho gia đình. Thực hiện chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCCOP) trong xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh liên kết tìm đầu ra cho các sản phẩm từ nghề truyền thống; chú trọng đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống theo chiều sâu gắn với việc xây dựng thương hiệu. Vùng ĐBSH có nhiều làng nghề truyền thống. Phát triển các làng nghề là giải pháp quan trọng tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn trong vùng. Cần khuyến khích, động viên và tạo mọi điều kiện cho các bậc nghệ nhân và các lao động lâu năm, có kinh nghiệm, giỏi nghề tình nguyện, nhiệt tình truyền nghề cho các thế hệ lao động trẻ. Cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghề đầu tư, mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, trang bị công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm có giá trị cao, nâng cao sức cạnh tranh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất và quảng bá sản phẩm cho các làng nghề truyền thống.

Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng ĐBSH: cần nâng mức hỗ trợ kinh phí học nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là lao động bị thu hồi đất nông nghiệp. Việc hỗ trợ đào tạo nghề bằng cách không giao trực tiếp cho hộ nông dân mà thông qua các trung tâm dạy nghề hoặc các doanh nghiệp để tổ chức lớp học. Tuy nhiên, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động bị thu hồi đất không vượt quá 1 triệu đồng/người như hiện nay là quá thấp, không đủ để học nghề, đặc biệt là các nghề đòi hỏi thời gian đào tạo dài. Ngoài mức hỗ trợ chung quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg (28/9/2015) của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố vùng ĐBSH tùy theo điều kiện, khả năng ngân sách địa phương, bố trí và huy động thêm các nguồn kinh phí hợp pháp khác để hỗ trợ thêm cho các đối tượng khác có nhu cầu học nghề.

Ba là, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động nông thôn vùng ĐBSH. Xuất khẩu lao động là một giải pháp quan trọng góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Xuất khẩu lao động giúp người lao động có thu nhập cao; nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, có cơ hội học ngoại ngữ, gia tăng cơ hội tìm kiếm công việc lương cao khi về nước, hình thành tác phong làm việc chuẩn mực, có tính kỷ luật cao. Lao động xuất khẩu sau khi hết thời hạn làm việc tại nước ngoài đã có vốn tích lũy và được làm việc trong môi trường công nghiệp, khi trở về địa phương có thể sử dụng vốn đó để chuyển đổi nghề mới hoặc phát triển sản xuất - kinh doanh. Mặt khác, phần lớn lao động đi xuất khẩu thường phải trải qua các khóa đào tạo nghề ngắn hạn, khi trở về địa phương có thể học nghề nâng cao và phát triển công việc theo nghề đã được đào

164


tạo hoặc làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh doanh…, đó là những ích lợi từ việc xuất khẩu lao động.

Xóa đói, giảm nghèo bền vững, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ở nông thôn vùng ĐBSH trong bối cảnh CMCN 4.0.

Chính phủ tiếp tục rà soát, dỡ bỏ, bãi bỏ các chính sách hỗ trợ mang tính bao cấp, cho không làm nảy sinh tư tưởng ỷ lại, trông chờ so bì chính sách, khơi dậy ý thức chủ động vượt khó vươn lên thoát nghèo của người dân. Các tiêu chí về thu nhập, các tiêu chí đánh giá đo lường đa chiều cần rõ ràng, thiên về định lượng. Việc xây dựng thiết chế, chính sách cần quan tâm đồng đều đến các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo và cả hộ mới thoát nghèo bởi vì khoảng cách giữa các nhóm đối tượng này là không lớn, chỉ cần một tác động nhỏ từ xã hội cũng có thể làm cho họ bị tái nghèo. Cần tiếp tục gắn kết chặt chẽ hơn công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý với các tiêu chí giảm nghèo trong giai đoạn mới, giúp người dân tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về pháp lý liên quan đến đời sống sinh hoạt, hôn nhân gia đình, đất đai… Việc này chính là thiết thực bảo vệ người nghèo trước tác động tiêu cực của xã hội để họ không bị rơi vào cạm bẫy tín dụng đen, ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội khác, tăng khả năng tiếp cận có hiệu quả và hưởng thụ tối đa nguồn lực ưu đãi dành cho họ.

Khuyến khích nông dân vùng ĐBSH tham gia bảo hiểm.

Chính sách bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển và coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực đối với sự phát triển bền vững đất nước cũng như thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Chính sách bảo hiểm xã hội cũng góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân và phát triển bền vững đất nước. Trong xã hội, nông dân là lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp, nông thôn là khu vực có nhiều rủi ro, việc làm không ổn định, năng suất và thu nhập thấp, rất dễ bị tác động bởi thị trường trong nước và thế giới. Trong khi đó, mức độ tham gia bảo hiểm xã hội của nông dân Việt Nam nói chung, nông dân vùng ĐBSH nói riêng lại rất thấp vì đây là khu vực tự làm trong kinh tế hộ gia đình, không có quan hệ lao động, nên chưa được điều chỉnh của Bộ Luật lao động, và do đó chưa được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Thực tế, nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội của nông dân vùng ĐBSH là rất lớn, nhưng khả năng đóng góp rất hạn chế, hoặc nếu có tham gia cũng chỉ có khả năng đóng góp theo phương án thấp, và như vậy, mức độ thỏa mãn cũng thấp. Để

Xem tất cả 214 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí