Thực Trạng Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đạo Đức Cán Bộ Trong Công Tác Cán Bộ Của Nhà Nước

không nhỏ cán bộ, đảng viên, và tình trạng tham nhũng lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”.

- Tư tưởng chính trị bị suy thoái: Do sống trong điều kiện thuận lợi về mặt vật chất, do sự phát triển ngày càng mạnh của nền kinh tế thị trường, cho nên một số cán bộ, đảng viên không tự ý thực học hỏi nâng cao trình độ nhận thức lý luận, không có chí tiến thủ, không phấn đấu tu dưỡng bản than để khi gặp hoàn cảnh không kiên định được lập trường tư tưởng, nên tư tưởng chính trị suy thoái.

- Đạo đức lối sống: Một bộ phận đảng viên đã không kiên định được lý tưởng nên có lối sống xa hoa, ích kỉ, dùng của công vào của cá nhân, nạn tham nhũng, cửa quyền ngày càng hoành hành như điển hình gần đây nhất là vụ đồng chí Bí thư Huyện ủy Mỹ Đức cả nhà làm quan, con kính thưa bố, cháu biểu quyết bác; vụ Vinashjn.…. Một số cán bộ đảng viên đã không tự ý thức được đạo đức của người cộng sản, công bộc của nhân dân mà tham nhũng làm thất thoát của Nhà nước hàng mấy chục tỷ đồng, hay kéo bè kéo đảng xây dựng hệ thống gia đình trị để đạt được mục đích cá nhân của mình, làm ảnh hưởng đến tập thể và xã hội. Nhiều vụ việc diễn ra gần đây vi phạm đến đạo đức cán bộ, cảnh báo tình trạng đạo đức truyền thống đang bị suy thoái nặng, thể hiện rõ ở việc một số cán bộ có hành động sống vội, sống gấp, sống cho bản thân, cá nhân là nhiều, như tệ nạn đút lót, hối lộ, tham nhũng chưa được ngăn chặn, tệ chạy quyền,chạy chức, tệ quan liêu hách dịch….làm cho văn hóa, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên không còn trong sạch nữa. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân đang gia tăng trong cán bộ đảng viên thì việc nâng cao nhận thức đạo đức của người cán bộ trong công tác cán bộ của Đảng được chú trọng nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ trong Đảng đáp ứng yêu cầu hiện nay của đất nước và quốc tế.

2.1.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ trong công tác cán bộ của Nhà nước

* Thực trạng quy định chuẩn mực đạo đức cán bộ công chức, viên chức của Nhà nước ta:

Quyền lực nhà nước liên quan trực tiếp đến nền công vụ, được phản ánh qua

một trong những nội dung cốt yếu của nền công vụ, đó là đội ngũ CBCC. Bất kỳ nhà nước nào cũng phải định ra những chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ của mình. Ngoài những nội dung chuẩn mực mà nhiều quốc gia sử dụng tương tự như nhau, thì tuỳ theo đặc điểm văn hoá, tâm lý xã hội... mỗi quốc gia lại có những chuẩn mực đạo đức đặc thù riêng trong nền công vụ của mình.

Chuẩn mực đạo đức công vụ của CBCC Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước và nền công vụ nước ta coi là “cái nền”, “cái gốc” của đội ngũ CBCC và được gói gọn trong 4 chữ “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”, suy rộng ra là “nhân, nghĩa, liêm, trí, dũng, tín”.

Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy chế công chức Việt Nam. Với văn bản này có thể nói, đây là lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh, làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức cách mạng Việt Nam. Trong đó, tại Lời nói đầu, nội dung về công chức và đạo đức công vụ đã được thể hiện rất rõ: “Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân… công chức Việt Nam phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”.

Điều 2 của Quy chế quy định: “Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

Điều 3 Quy chế công chức Việt Nam quy định quyền lợi của công chức và tại các điều tiếp theo quy định việc tuyển dụng, tổ chức, quản trị, sử dụng công chức.

Từ những quy định trên có thể thấy, ngay trong Quy chế công chức đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Nhà nước ta đã nêu lên những chuẩn mực đạo đức - pháp lý rất quan trọng đối với công chức nhà nước. Lần đầu tiên những giá trị đạo đức truyền thống: cần, kiệm, liêm, chính... được thể chế hoá thành những giá trị chuẩn mực pháp lý đối với công chức Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan trọng và vượt qua thời gian, đến nay những quy định này vẫn còn nguyên giá trị.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ - 8

Kế thừa và phát huy những quy định pháp luật về công chức và đạo đức công vụ và nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ công chức trong tình hình mới, Hiến pháp năm 1980 quy định tại Điều 8: “Tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ XHCN. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” [33, Điều 8].

Như vậy, với quy định của Hiến pháp 1980, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành những chuẩn mực về đạo đức - pháp lý cho công chức và cơ quan nhà nước trong đạo luật gốc, đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất.

Hiến pháp 1992 tại Điều 8 cũng quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng” [34].

Như vậy với quy định này, Hiến pháp 1992 đã kế thừa Hiến pháp 1980 nhưng đồng thời phát triển thêm để không ngừng hoàn thiện những nguyên tắc, những quy định hiến định đối với đạo đức công vụ và các chuẩn mực pháp lý cho công chức nhà nước.

Căn cứ vào Hiến pháp 1992, để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, năng lực và tận tụy phục vụ nhân dân, trung thành với Tổ quốc, Nhà nước ta đã ban hành Luật CBCC, trong đó, những chuẩn mực đạo đức - pháp lý được thể hiện một cách tập trung và rất cụ thể ở các quy định về nghĩa vụ của công chức, như: trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Luật CBCC cũng quy định: trong khi thi hành công vụ, CBCC có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn được giao; có ý thức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước; chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao; chấp hành quyết định của cấp trên. Đối với cán bộ, công chức là người đứng đầu thì còn phải thực hiện các nghĩa vụ như: chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của CBCC; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng, quan liêu, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hoá công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân...

Với việc ban hành Luật CBCC, chế định công chức và đạo đức công vụ đã có bước phát triển và hoàn thiện mới, góp phần xác lập các chuẩn mực đạo đức - pháp lý cho CBCC Việt Nam trong tiến trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh.

Luật Phòng, chống tham nhũng cũng có những quy định phản ánh những nội dung về chuẩn mực công chức, công vụ, trong đó xác định cụ thể CBCC là một trong những đối tượng là người có chức vụ, quyền hạn. Xác định tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn này để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Những hành vi tham nhũng được xác định là: tham ô tài sản XHCN; nhận hối lộ; lợi dụng chức quyền để đưa hối lộ, môi giới hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản XHCN...

Để đảm bảo các nguyên tắc về chuẩn mực đạo đức trong hoạt động công vụ

của cán bộ, công chức và nhằm chống lãng phí, thực hành tiết kiệm ngân sách nhà nước, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí quy định trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như: thực hiện công vụ được giao đúng quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; sử dụng tiền, tài sản nhà nước được giao đúng mục đích, định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; tham gia giám sát, đề xuất các biện pháp, giải pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cơ quan, tổ chức và trong lĩnh vực công tác được phân công, kịp thời phát hiện, tố cáo, ngăn chặn và xử lý hành vi gây lãng phí theo thẩm quyền. Ngoài ra Luật cũng quy định cán bộ, công chức có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức như: khiển trách; cảnh cáo... buộc thôi việc.

Luật viên chức năm 2012 cũng quy định đầy đủ về đạo đức người viên chức tại điều 15 của Luật này. Như vậy chuẩn mực đạo đức được thể chế hóa thành Luật cụ thể với từng đối tượng được điều chỉnh. Trong hoạt động ở doanh nghiệp nhà nước và thực hiện dân chủ ở xã cũng có những văn bản quy phạm pháp luật quy định chuẩn mực đạo đức CBCC, viên chức khi thi hành công vụ...

Quy chế đạo đức Thẩm phán quy định về người cán bộ Tòa án là “Phụng công, thụ pháp, chí công, vô tư” vận dụng TTHCM về đạo đức cán bộ.Trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 2-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân dân noi theo”. Lời dạy ấy đã đi vào tâm khảm mỗi cán bộ tư pháp, mỗi Thẩm phán, cán bộ Tòa án, nhưng hiểu và thực hiện cho đúng, cho đầy đủ, phù hợp với công cuộc cải cách tư pháp hiện nay là vấn đề rất đáng quan tâm. “Phụng công” nghĩa là tôn thờ lẽ công bằng, tôn thờ công lý, không thiên lệch. “Thủ pháp” là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, không vì lý do gì mà bẻ cong, làm trái pháp luật. Muốn “phụng công, thủ pháp” được thì trước hết Thẩm phán, người cán bộ Tòa án phải có bản lĩnh, có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và cái tâm trong sáng.Năm 1950, nói chuyện tại Hội nghị học tập

của cán bộ ngành tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu yêu cầu trong công tác xử án: “Phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng”.

Đạo đức công vụ của CBCC là yếu tố cốt lõi bảo đảm cho hoạt động và quản lý nhà nước có hiệu quả. Trong nền KTTT đòi hỏi có những cơ chế, quy định pháp luật tốt hơn, phù hợp hơn để duy trì và phát huy cao nhất các giá trị cơ bản của nền công vụ - một nền công vụ vì dân. Việc hình thành nên các chuẩn mực về tư cách đạo đức công vụ của người CBCC là rất quan trọng.

* Thực trạng thực hiện các quy định về đạo đức CBCC, viên chức ở nước ta thời gian qua:

Đất nước ta ngày càng ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của xã hội. Đời sống người dân được tăng lên về chất và lượng, tạo nên bầu không khí phấn khởi, tin tưởng và tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới của quần chúng nhân dân. Vì đời sống ngày càng được nâng cao nên đòi hỏi yêu cầu dịch vụ phục vụ cũng phải nâng cao chất lượng, và dịch vụ công không tránh khỏi việc phải đảm bảo ngày càng được chú trọng bỏ hẳn cơ chế “xin” “cho” mà thay thế bằng cơ chế dịch vụ phục vụ là lấy việc hài lòng của người dân làm thước đo cho kết quả hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ. Việc thay đổi cơ chế đòi hỏi người cán bộ phải luôn có tinh thần phụng sự nhân dân, ý thức cao trong công việc, thể hiện tầm quan trọng của đạo đức cán bộ thông qua đạo đức công vụ. Vì vậy Luật CBCC số 22/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008 có hiệu lực ngày 1/10/2010 của Quốc Hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phần chương II, mục 2, tại các điều 15,16,17 quy định về đạo đức cán bộ, văn hóa nơi công sở, văn hóa giao tiếp với nhân dân cụ thể như Điều 15 quy định: “CBCC phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ”; Điều 16 quy định:

1. Trong giao tiếp ở công sở, CBCC phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.

2. CBCC phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng; vô tư; khách

quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đánh giá nội bộ. 3. Khi thi hành công vụ CBCC phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp [36]. Điều 17 quy định 1. CBCC phải gần gũi với nhân dân; có tác phong thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực rõ rang, mạch lạc. 2. CBCC không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành chông vụ [36].

Nhà nước ta đã vận dụng tư tưởng về đạo đức người cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Nhà nước ta vận dụng cụ thể và chi tiết trong quá trình xây dựng Luật của Quốc Hội, Luật CBCC, Luật viên chức đề cao vai trò của đạo đức người cán bộ, đề cao phẩm chất của họ khi thi hành công vụ, lấy đây làm chuẩn mực đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ được giao của CBCC. Thực trạng ngày nay đội ngũ cán bộ đã luôn phấn đấu không ngừng để đáp ứng được yêu cầu đặt ra của tình hình mới, tự cá nhân mỗi cán bộ phấn đấu tu dưỡng đạo đức, trau dồi kinh nghiệm, học hỏi các đồng nghiệp để tạo cho mình cơ sở về phẩm chất khi phục vụ lợi ích của nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.

Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh kinh tế - chính trị hết sức phức tạp. Ở trong nước, nền kinh tế đã chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT, cũng từ đây những vấn đề xã hội nan giải bắt đầu phát sinh và ngày càng đa dạng, phức tạp. Trên thế giới quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, cùng với công nghệ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển không ngừng, nước ta kiên định đi theo con đường xây dựng CNXH ít nhiều bị ảnh hưởng. Trước tình hình đó, đội ngũ cán bộ nước ta nói chung, đạo đức cán bộ nói riêng phải thường xuyên được trau dồi để giữ vững phẩm chất và đạo đức cách mạng, thực hiện tốt trọng trách của Đảng và nhân dân giao phó.

Phần lớn cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân đã lựa chọn; có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có lối sống lành mạnh trong sáng. Như vậy trước những biến động phức tạp của tình hình trong

nước và quốc tế, nhưng đại đa số cán bộ vẫn vững vàng về bản lĩnh, trong sạch về đạo đức, trưởng thành về năng lực chuyên môn. Thực chất, những ưu điểm này có cơ sở sâu xa từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước trong 15 năm đổi mới vừa qua,...

Từ quan điểm đổi mới toàn diện của Đảng tại Đại hội toàn quốc lần VI, trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu. Nền kinh tế nước ta chuyển dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Phát triển KTTT một mặt tạo nên những điều kiện kinh tế xã hội cần thiết để cá nhân phát triển. Mặt khác, cá nhân phát huy được vai trò chủ động tích cực của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. KTTT đã trở thành nhân tố động lực quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới. Trong đó đặc biệt là trình độ năng lực, phẩm chất và đạo đức của người cán bộ được nâng lên rõ rệt. Làm việc trong môi trường có tính cạnh tranh quyết liệt, song phẳng đòi hỏi người cán bộ phải phát huy cao độ bản lĩnh, năng lực, phẩm chất mới có thể đạt được hiệu quả. Nói cách khác đòi hỏi nhân cách của họ phải được hoàn thiện và phát triển phù hợp với điều kiện mới. Từ đó khuyến khích sự không ngừng phấn đấu cống hiến của mỗi người, công tác đạo đức cán bộ được chú trọng trên mọi lĩnh vực.

Nhà nước quản lý đất nước với chiến lược đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị tạo nên sự phát triển ổn định vững chắc. Vì vậy, mặc dù có những biến động phức tạp về tình hình chính trị trên thế giới đặc biệt là sự tan vỡ của hệ thống CNXH trên thế giới nhưng đại đa số cán bộ, đảng viên vẫn tin tưởng vào con đường đi lên CNXH là đúng quy luật vận động của lịch sử nhân loại. Chính trong bối cảnh phức tạp đó, các cán bộ đã tỏ rõ sự vững vàng về bản lĩnh chính trị, tin tưởng vào đường lối của Đảng, góp phần cùng Đảng đưa đất nước vượt qua giai đoạn cam go thử thách. Nhờ có những thay đổi về mặt khách quan tử thực tiễn đổi mới đã giúp cho đội ngũ cán bộ trưởng thành một bước đáng kể cả về năng lực và phẩm chất trong hoạt động kinh tế - chính trị của mình.

Từ việc vận dụng của Nhà nước trong công tác cán bộ mà ta đã đạt được

Xem tất cả 122 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí