chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân vào Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
Cần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cụ thể hoá đầy đủ nguyên tắc hiến định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta nhằm đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng hoạt động định tội danh bảo đảm tốt hơn tính dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả pháp luật trong đó chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và có các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của in-tơ-nét, mạng xã hội góp phần tiếp tục làm rò cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự nhằm bảo đảm để người tham tố tụng tích cực tham gia vào hoạt động định tội danh, giám sát cơ quan tiến hành tố tụng bằng nhiều hình thức. Mặt khác phải hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động định tội danh dựa trên cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp.
Do đó, theo tác giả cần tăng cường thực hiện những vấn đề sau:
Một là, giải thích hướng dẫn các dấu hiệu pháp lý để phân biệt một số tội trong phần các tội xâm phạm quyền sở hữu với nhau như: giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều 174 BLHS năm 2015 với tội LDTNCĐTS Điều 175 BLHS năm 2015. Cần thiết có hướng dẫn để phân biệt các tội nêu trên vì nhiều trường hợp để xác định thời điểm hình thành tội phạm của hai tội này là vấn đề bất cập trong thực tế.
Hai là, yêu cầu cấp thiết trong tình hình diễn biến tội phạm gia tăng như hiện nay thì cần hướng dẫn, giải thích tình tiết định tội “đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 175 năm 2015 tội LDTNCĐTS. Một quy định pháp luật cần rò ràng, dễ hiểu, thống nhất cách hiểu chung cho tất cả các tầng lớp xã hội. Vấn đề đặt ra là việc mang tài sản chiếm đoạt cầm cố, thế chấp mà không thông báo cho bị hại biết hoặc mang tài sản chiếm đoạt vay lại với lãi suất cao hơn mức lãi suất khi vay của bị hại “không gấp 05 lần trở lên” quy định tại Điều 201 BLHS thì có được hiểu là mục đích bất hợp pháp không. Vì vậy, chủ thể có thẩm quyền định tội danh chỉ áp dụng thống nhất quy định nêu trên khi có văn bản hướng dẫn về trường hợp đó nhằm đat chất lượng tối ưu cho hoạt động định tội danh trong các vụ án hình sự.
Ba là, tính khoa học, hợp lý, rò ràng của BLHS năm 2015 thể hiện ở nhiều quy định nhưng vẫn tồn tại những vấn đề bất cập trong thực tế. Rất khó xác định ranh giới giữa dân sự và hình sự trong những trường hợp sử dụng tài sản chiếm đoạt không đúng thỏa thuận với bị hại nhưng không phải sử dụng bất hợp pháp mà chỉ sử dụng chi tiêu sinh hoạt gia đình dẫn đến không có khả năng thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn thì không xác định được có cấu thành tội phạm tội LDTNCĐTS không theo hướng dẫn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, theo Điểm a Khoản 1 Điều 175 của BLHS năm 2015. Những nội dung này là trao đổi nghiệp vụ trong ngành Tòa án, không có giá trị pháp lý như văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự thì dựa vào đâu để chủ thể có thẩm quyền định tội danh căn cứ vào nội dung này để áp dụng trong quá trình định tội danh. Vẫn chưa có sự thống nhất giữa các văn bản hướng dẫn đối với Điều 175 của BLHS năm 2015.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Định Tội Danh Tội Lạm Dụng Tín Nhiệm Chiếm Đoạt Tài Sản Theo Cấu Thành Tội Phạm Tăng Nặng
- Thực Tiễn Định Tội Danh Tội Lạm Dụng Tín Nhiệm Chiếm Đoạt Tài Sản Trong Trường Hợp Phạm Nhiều Tội.
- Các Giải Pháp Bảo Đảm Định Tội Danh Đúng Tội Lạm Dụng Tín Nhiệm Chiếm Đoạt Tài Sản
- Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 11
- Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 12
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
3.2.4. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ định tội danh
Con người là chủ thể áp dụng áp dụng pháp luật. Do đó, cần xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung, đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là Thẩm phán và Hội thẩm có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm và có bản lĩnh chính trị vững vàng để đáp ứng được yêu cầu bảo đảm thực hiện mục tiêu bảo vệ công lý trong thực tiễn công tác tư pháp xét xử tại Việt Nam. Điều kiện quan trọng hàng đầu, là điều kiện cơ bản và nền tảng, là điều cần và đủ để định tội danh đúng nhằm tránh oan sai, bỏ lột tội phạm là năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của chủ thể có thẩm quyền định tội danh. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật hình sự. Tuy nhiên, công tác xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn đang bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế như chính sách pháp luật trong tư pháp còn chậm được đổi mới, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động còn nhiều hạn chế, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu, một số sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.
Để đảm bảo hoạt động định tội danh được chính xác, khách quan, vô tư, đúng người, đúng tội và còn phải đúng pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải đề cao tinh thần trách nhiệm trong khi thi hành công vụ, xem xét, đánh giá chứng cứ của vụ án, phải nghiên cứu đầy đủ các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.Từ đó, ban hành một bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hạn chế đến mức thấp nhất án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Tăng cường tập huấn nghiệp vụ và những kinh nghiệm thực tiễn tạo sự đồng nhất trong tư duy lý luận cho hoạt động định tội danh. Cần phải xử lý nghiêm khắc các trường hợp tiêu cực, rút kinh nghiệm những trường hợp hủy sửa bản
án do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
Tiếp tục hoàn thiện các cơ sở vật chất tiêu biểu là chế độ tiền lương đối với cán bộ ngành Kiểm sát, Tòa án phù hợp điều kiện xã hội hiện tại nhằm nâng cao chất lượng xét xử mà không phụ thuộc vào thu nhập gia đình góp phần xây dựng nền tư pháp văn minh.
3.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong hoạt động định tội danh
Các quy định trong pháp luật hình sự có những quy phạm pháp luật mang tính hợp lý, khả thi hơn trong thực tiễn áp dụng. Trong BLTTHS có những quy định đặt ra chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền THTT. Vấn đề đặt ra khi có sự mâu thuẫn, không tương thích giữa hai quy định bất kỳ về cùng một đối tượng thì nên lựa chọn quy định nào phù hợp với nội hàm chức năng TTHS cơ bản mà cơ quan đó được giao thực hiện cũng như những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể được pháp luật ghi nhận. Ngoài ra, quy định được áp dụng còn phải có tính khả thi, tức là phải phù hợp với các điều kiện thực tế khi tiến hành các hoạt động TTHS ở nước ta. Cũng có thể có những quy định mở rộng đối tượng áp dụng của hoạt động tố tụng nào đó trong khi quy định chung thì không đề cập. Đối với tình huống này cũng nên lựa chọn QPPL nào hợp lý, phù hợp hơn với thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Vậy nên cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong hoạt động định tội danh nhằm tạo nhận thức lý luận thống nhất khi tiến hành định tội danh, cân bằng giữa yêu cầu bảo vệ quyền con người và tránh gây khó khăn một cách bất hợp lý cho cơ quan có thẩm quyền THTT. Kiểm tra thường xuyên việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của chủ thề có thẩm quyền định tội danh trong việc phối hợp chặt chẽ trong từng giai đoạn tiến hành tố tụng.
Người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng cần sát sao trong việc quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động định tội danh đối với các vụ án có tính chất phức tạp góp phần thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp và căn cứ chức năng, nhiệm vụ, tình hình thực tế xây dựng các văn bản để cụ thể hóa thực hiện đúng hoạt động định tội danh. Hàng quý, hàng năm phải tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện phù hợp với tình hình và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tồ tụng từng địa phương trong từng giai đoạn. Ngoài ra phải thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến các nhiệm vụ cải cách tư pháp song hành trong hoạt động định tội danh được thực hiện nghiêm túc bằng nhiều hình thức, phù hợp với từng đối tượng; qua đó, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng và cơ quan tư pháp nói chung trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Công tác giám sát đối với hoạt động định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng phải được đưa vào chương trình công tác hàng năm. Tòa án cấp tỉnh cần tổ chức cuộc họp thường lệ, chuyên đề và bất thường để thẩm tra báo cáo kết quả hoạt động định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng, tổ chức phiên giải trình về công tác điều tra, truy tố, xét xử trên địa phương. Qua đó, bước đầu chấn chỉnh, khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Từ đó làm cơ sở, bài học cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung khi định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung và đối với Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản riêng trong phối hợp thực hiện hoạt động định tội danh. Qua đó, phát hiện, kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục kịp thời những sai sót trong tố tụng.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng đều chịu sự thanh tra, kiểm
tra của Chính phủ, đồng thời khắc phục tình trạng công tác thanh tra, kiểm tra gây khó khăn, phiền hà cho hoạt động định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức các cơ quan tiến hành tố tụng.
3.2.6. Tăng cường các nguồn lực vật chất- kỹ thuật cho hoạt động định tội danh
Cần xây dựng một đội ngũ người tiến hành tố tụng có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có bản lĩnh chính trị vững vàng là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động định tội danh trong giải quyết vụ án hình sự. Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, nâng cao đời sống vật chất cho những cán bộ làm công tác tiến hành tố tụng, có biện pháp xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ tiến hành tố tụng thiếu tinh thần trách nhiệm khi giải quyết các vụ án hình sự nhằm nêu gương cho những người tiến hành tố tụng phải không ngừng tự rèn luyện phẩm chất đạo đức chính trị, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn, có tinh thần trách nhiệm, có lối sống giản dị, chí công vô tư, cần kiệm liêm chính trong công việc.
3.2.7. Các giải pháp khác
Một là, ưu tiên thực hiện tốt công tác quy hoạch và luân chuyển, biệt phái, điều động cán bộ, bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ thuộc cơ quan tiến hành tố tụng đồng thời với công tác kiểm tra nghiêm túc nhiệm vụ, công vụ cán bộ thuộc cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng địa phương trong công tác quản lý cán bộ. Nâng cao công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm.
Hai là, tăng cường tổng kết thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự
Khắc phục những thiếu sót, bất cập trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nhằm kiểm tra kết quả của việc đưa pháp luật đi vào đời sống xã hội bằng phương án kiểm tra, đánh giá định kỳ các cơ quan tiến hành tố tụng CQĐT; VKS và TA đối với công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự đồng thời với việc tăng cường tăng cường tổng kết thực tiễn quá trình áp dụng pháp luật hình sự nhằm thực hiện tháo gỡ những vướng mắc áp dụng pháp luật hình sự về định tội danh.
Ba là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức pháp luật của người dân, các cơ quan, doanh nghiệp trong phòng ngừa tội phạm TLDTNCĐTS nhằm vô hiệu hóa hành vi phạm tội LDTNCĐTS tinh vi, cảnh báo nghiêm túc trách nhiệm quản lý tài sản của chủ sở hữu.
Bốn là, phải có sự tăng cường phối hợp chặt chẽ trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nhằm mang lại chất lượng và hiệu quả giái quyết các vụ án hình sự, bảo đảm định tội danh đúng, tránh oan sai. Những khó khăn, vướng mắc các vụ án hình sự phức tạp phải được tháo gỡ kịp thời bằng tăng cường những Quy chế phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng. Thường xuyên tổ chức các cuộc họp liên ngành giữa các cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc những vấn đề có quan điểm khác nhau về áp dụng pháp luật, những vấn đề pháp luật chưa quy định hoặc chưa có hướng dẫn áp dụng, những vụ án lớn, trọng điểm, phức tạp kịp thời phát hiện những sai sót, những khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm tìm ra những giải pháp khắc phục góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự, bảo đảm định tội danh đúng. Tăng cường các phiên tòa hình sự cải cách tư pháp nhằm nâng cao kỹ năng tranh tụng, kỹ năng áp dụng pháp luật hình sự theo đúng đúng chức năng, nhiệm vụ của từng ngành.
Năm là, cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng hình sự theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà hành chính đối với tất cả các loại khiếu kiện hành chính.
Sáu là, tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hình sự. Đồng thời, đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật hình sự để phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ưu tiên xây dựng các văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ quyền con người trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ký kết và gia nhập các công ước quốc tế về chống khủng bố quốc tế, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, chống rửa tiền, chống tham nhũng, các hiệp định tương trợ tư pháp. Chú trọng việc nội luật hoá những điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Sớm ban hành Luật dẫn độ tội phạm và chuyển giao người bị kết án phạt tù.
Bảy là, lựa chọn, công bố, áp dụng án lệ các vụ án hình sự.
Thực tiễn xét xử một loại các vụ việc cụ thể, thể hiện trong các bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án cao cấp nhất xử, được tập hợp thành các tập án lệ. Thực chất án lệ là sự vận dụng, áp dụng pháp luật thực định vào các trường hợp cụ thể, có tác dụng giúp việc tìm hiểu pháp luật, rèn luyện tư duy pháp lý. Trường hợp mà điều luật quy định không rò, không đầy đủ thì án lệ là sự giải thích, bổ sung. Về nguyên tắc, án lệ không được coi là pháp luật. Nhưng do uy tín của toà án cao cấp, hoặc ở trường hợp có thiếu