tranh bằng một giọng văn lạnh lùng, khách quan trong cả truyện ngắn lẫn tiểu thuyết của mình.
Trên các trang viết của Bảo Ninh hiện ra những cái chết thật thương tâm của những người lính hậu cần (Trại “Bảy chú lùn”) – một sự hi sinh thầm lặng mà xiết bao đau đớn, cái chết đau đớn của Hải (Rửa tay gác kiếm) hay hàng loạt các tư thế, hỉnh ảnh chết chóc trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Người đọc như được chứng kiến cận cảnh trước một cái chết bị biến dạng của người lính quân bưu: “Thi thể anh bị đạn đại liên khoan toác ra những lỗ thủng lớn. Anh chết đã nhiều ngày, thân thể ngâm lâu dưới nước đã biến dạng và bị cá rỉa tung tóe” [60,205].
Bảo Ninh sử dụng giọng điệu lạnh lùng tưởng chừng như vô cảm khi miêu tả hậu quả chiến tranh tàn phá làng mạc và con người. Làng Diêm (Mùa khô cuối cùng) trong mưa bom bão đạn đã trở thành “một cái làng cô hồn”, “xiêu vắng”, đổ nát khiến nó “buồn ngắt, chơ vơ, nổi lên chìm lịm giữa bốn bề mênh mông thảo nguyên bao la quạnh vắng” [60,74]. Con người nơi đây “sau cả giờ chết chìm trong pháo bầy cấp tập, lại tiếp tục những lượt người tan xương nát thịt dưới trận mưa bom rền rền tới sáng” [60,80]. Vì vậy, đàn ông thì “què cụt, đui mù, bẹp dí”, đàn bà thì “rách rưới, rạc rài”, trẻ con thì “trần truồng, bụng ỏng, gầy giơ xương” [60,79]. Điển hình cho con người bị tàn phá bởi chiến tranh ở làng Diêm là Diệu Nương. Chiến tranh đã biến một cô gái yêu đời, trẻ trung xinh đẹp thành “thân tàn ma dại”. “Đêm đến, trong hỏa ngục rùng rợn, Diệu Nương bị vùi dưới núi xác chết. Hơn một ngày thở bằng hơi thở của các tử thi rồi cô mới được moi ra, trần truồng, bê bết máu đặc”. Từ đó, cô trở thành một kẻ điên dại, thành “đồ đĩ rạc”, “lúc điên ngấm ngầm, lúc lấp lửng điên, lang thang, vật vờ, nửa mộng du, lúc bột phát quay cuồng, mất trí” [60,81]. Đằng sau sự sống không bằng chết của Diệu Nương là một tâm hồn khao khát yêu thương, khao khát tự do đến cháy bỏng. Cô đã được sống trong tình yêu thầm lặng của Tuấn “mếu”. Cả hai đã dũng cảm bỏ đi để được đàn, được hát, được tự do. Tuy nhiên, cuộc chạy trốn của đôi tình nhân đã không thoát khỏi sự
truy lùng của mọi người. Bảo Ninh đã thuật lại cuộc săn lùng ấy bằng giọng điệu tỉnh táo, lạnh lùng. Kết thúc bi kịch tình yêu là cái chết của đôi bạn trẻ: “Sau bụi cây bị đạn băm, hai con người ấy quấn lấy nhau. Những vết đạn như càng vặn xiết hai cơ thể vào nhau. Vào chớp mắt cuối cùng, người đàn ông dường như đã cố gắng dùng thân mình đỡ đạn cho người đàn bà. Nhưng đạn khoan qua người họ. Ánh lửa từ bếp lấp loáng trên hai mảnh lưng trần”[60,103].
Bảo Ninh không ngần ngại gọi Diệu Nương là “đĩ rạc”, “vi trùng cái”, “giống đàn bà gốc ngụy”… Nhưng đằng sau cái vẻ lạnh lùng ấy là sự thương cảm cho thân phận một con người. Cũng bằng lối viết lạnh lùng sắc sảo, Nguyễn Huy Thiệp trong truyện ngắn Tướng về hưu đã phơi bày một hiện tượng chưa từng thấy trong văn học trước đó: Sự hoang mang và bất lực của một anh hùng trong chiến tranh trước thực trạng hỗn loạn của xã hội sau chiến tranh.
Nói đến sự nhẫn tâm vô cảm của con người với loài vật và với chính đồng loại mình, Bảo Ninh đã phơi bày sự độc ác của con người bằng giọng văn lạnh lùng đến chua xót. Bi kịch của con khỉ là một trong những tác phẩm như vậy. Tác giả miêu tả sự đối xử của con người với con khỉ ở vườn bách thú: Thoạt đầu chỉ là quên cho ăn “bỏ đói cố tình để hành hạ và chơi khăm” con khỉ tội nghiệp. Vấn đề là ở chỗ, con người “cực kì háo hức chờ xem con vật bị bạc đãi” một cách thích thú: Từ vỏ chuối, lõi ngô, giấy kẹo, lá bánh, những lời chửi rủa đến những thứ phi hữu cơ, tuyệt đối không tài nào xực nổi: mẩu xà phòng, cục nhựa đường, đầu mẩu thuốc lá… Bọn nhãi ranh bắn sung cao su, thổi xì đồng, và chĩa “bòi” tia vào chuồng. Theo gương bọn trẻ, bọn người lớn biến chuồng khỉ thành toa - lét công cộng. Chẳng ai có ác ý, người ta chỉ giải trí, chỉ tò mò xem xét, đánh giá sức chịu đựng của một giống động vật bà con gần với giống người” [60,37]; “Tai ác hơn, tôi thấy một chị mang chuối ra dử, từ từ bóc vỏ, từ từ nhá cho con vật đang đói liệt chết thèm…”. Tất cả những trò đểu cáng nhằm hành xác khỉ con ấy khiến cho nó phải sống lay lắt trong sự khủng bố của dạ dày, trong không khí hôi thối kinh tởm. Lở loét, trụi lông, nó nằm bẹp trên chuồng nhớp nhúa… Bằng giọng lạnh lùng, khách quan, Bảo Ninh đã phê phán
lên án sự dửng dưng, vô cảm của con người. Đây không chỉ là bi kịch của con khỉ mà còn là bi kịch đau đớn của con người khi mà trong xã hội hiện đại, sự vô cảm, thú tính tràn ngập. Tác phẩm gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh về nhân tính con người trước đồng loại. Mặc dù được miêu tả bằng giọng lạnh lùng, khách quan nhưng ẩn chứa đằng sau đó là nỗi đau, là niềm trăn trở của tác giả về một hiện tượng xã hội đang rất phổ biến hiện nay.
Có thể bạn quan tâm!
- Truyện Ngắn Bảo Ninh - 12
- Truyện Ngắn Bảo Ninh - 13
- Giọng Điệu Trần Thuật Trong Truyện Ngắn Bảo Ninh
- Truyện Ngắn Bảo Ninh - 16
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Sương Nguyệt Minh cũng phơi bày sự độc ác, nhẫn tâm của con người trong truyện ngắn Nơi hoang dã đồng vọng bằng giọng văn lạnh lùng, gai góc. Trong một quán ăn nhỏ mà xảy ra biết bao điều độc ác. Nơi đó có một người vợ bị cụt chân phải sống với lũ chuột trong một ngôi nhà cuối vườn, có một con thú còn là bào thai bị người ta mổ thịt để tẩm bổ, có con người chuẩn bị biến thành một “món ăn” “giải đen” cho chính đồng loại mình…
Miêu tả bằng giọng văn lạnh lùng, khách quan, dù truyện được kể ở ngôi thứ ba, song người dẫn chuyện không xuất hiện mà cứ để cho sự việc tự nói nên lời. Điều này khác hẳn với cách kể chuyện theo kiểu “người biết tuốt” trước đây. Đúng như PGS.TS Vũ Tuấn Anh nhận xét: “Văn học đương đại mất đi tính giáo huấn trực tiếp, không đặt các vị trí xác quyết mà tăng cường đối thoại, một cuộc đối thoại phong phú trên các vấn đề xã hội và con người” [1, 29 – 31).
Với giọng điệu khách quan, lạnh lùng, Bảo Ninh đã miêu tả cuộc sống hậu chiến một cách sinh động, chân thực. Khi sử dụng giọng điệu này, nhà văn đã lựa chọn cách trần thuật ở ngôi thứ ba. Trong quá trình trần thuật, tác giả giấu kỹ cảm xúc, thái độ của mình. Ông để cho toàn bộ sự việc, hiện tượng, hình tượng nghệ thuật xuất hiện một cách chân thực, khách quan. Từ đó, người đọc tự cảm nhận, tự đánh giá và cảm thụ tác phẩm. Chính vì vậy, hiện thực được miêu tả trong tác phẩm của Bảo Ninh mang màu sắc khách quan hơn, ngôn ngữ trần thuật mang tính đa thanh hơn, nhà văn trở thành người đồng sáng tạo với độc giả. Tuy vậy, đằng sau vẻ lạnh lùng ấy là một tấm lòng, một tình cảm, một sự trăn trở day dứt trước thân phận con người trong và sau chiến tranh, trước sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức của một bộ phận trong xã hội hiện đại.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của xã hội, văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt từ sau đổi mới, đã có những thay đổi đáng kể. Góp mặt cho sự thay đổi đó là truyện ngắn, một thể loại tiên phong trong việc phản ánh kịp thời những vấn đề thời sự ngổn ngang, đa dạng và phức tạp của xã hội Việt Nam đương đại. Thành tựu của thể loại truyện ngắn thời kỳ này có sự đóng góp không nhỏ của các nhà văn từng là người lính, trong đó có Bảo Ninh. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn này giúp chúng ta không chỉ có cái nhìn sâu sắc hơn về tác phẩm của ông mà còn góp phần nhìn nhận toàn diện hơn về văn học viết về chiến tranh thời hậu chiến.
1. Chiến tranh đã qua đi nhưng nỗi đau vẫn còn đó. Thời gian có thể giúp con người lành lặn những vết thương thể xác nhưng những đau đớn trong tâm hồn đâu dễ xoá nhoà. Từng khoác trên mình chiếc áo quân nhân, từng tham gia trận mạc, từng phải chứng kiến biết bao đồng đội mình, anh em mình hy sinh, những ám ảnh về chiến tranh khiến Bảo Ninh trăn trở, day dứt. Có thể nói, ký ức chiến tranh in hằn và hiện diện trên từng trang viết, ngay cả trong những tác phẩm tưởng như không viết về chiến tranh. Cái làm nên gương mặt Bảo Ninh chính là cách thể hiện khác biệt những mất mát đau thương do chiến tranh gây ra cho đất nước và con người Việt Nam. Những hậu quả chiến tranh để lại không chỉ về vật chất mà nặng nề hơn là thương tích tâm hồn, những vết thương không có máu chảy nhưng nó âm thầm bòn rút tinh thần và thể xác người lính. Đồng thời, nhà văn lý giải những nguyên nhân sâu xa tạo nên sức mạnh của cuộc kháng chiến (với cái nhìn đa chiều, đa diện) bằng những ký ức chiến tranh một cách đậm đặc, xuyên suốt, bằng những xúc cảm chân thật của một con người từng trải. Đặc biệt là những vấn đề của thời hậu chiến (cuộc sống, con người, đạo đức, mối quan hệ giữa thế hệ hôm qua và thế hệ hôm nay..) được đặt ra một cách bức thiết, ám ảnh, day dứt khôn nguôi.
2. Sau “độ lùi thời gian”, chất sử thi nhạt dần, cảm hứng ngợi ca, tự hào, khâm phục trở thành cảm hứng chiêm nghiệm, lắng đọng, suy tư. Cách nhìn đời
đơn giản, rạch ròi thiện ác, bạn thù xưa kia đã nhường chỗ cho cái nhìn đa chiều, phức hợp về hiện thực và số phận con người. Hình ảnh nổi bật trong truyện ngắn Bảo Ninh là những người lính trở về sau chiến tranh. Khi đã có “độ lùi thời gian” nhất định, có sự chiêm nghiệm, suy tư của con người từng trải nên người lính được phản ánh một cách đầy đủ, trọn vẹn cả hai mặt sáng - tối, cao cả - thấp hèn… Đó là kiểu nhân vật chịu nhiều mất mát thiệt thòi, kiểu nhân vật tự thú và sám hối, kiểu nhân vật lạc thời. Dưới ngòi bút của Bảo Ninh, các nhân vật đã vật lộn, giằng xé, đấu tranh quyết liệt với cái ác, cái xấu nhằm hướng tới cái thiện, cái cao cả. Qua các trang văn của ông, người đọc cảm nhận được những đau đớn xót xa dằn vặt của các số phận, các mảnh đời khi phải chống chọi với thực tế phũ phàng của chiến tranh và cuộc sống thời hậu chiến dưới mọi dạng thái.
Nhân vật trong truyện ngắn Bảo Ninh được thể hiện sinh động qua nghệ thuật miêu tả ngoại hình và nghệ thuật thể hiện nhân vật qua hồi ức. Với ông, thể hiện nhân vật qua hồi ức mới chính là một trong những nét nổi bật trong toàn bộ sáng tác của nhà văn. Điều này tạo dấu ấn riêng biệt và khó quên trong lòng người đọc.
3. Cái làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn Bảo Ninh là sự thể hiện mới mẻ trong kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật của nhà văn.
Nhìn chung, chiến tranh và người lính trong truyện ngắn Bảo Ninh được tái hiện qua cái nhìn hồi ức nên ngay cách mở đầu đã thể hiện rất rõ ý đồ nghệ thuật của tác giả. Hầu hết các tác phẩm của ông đều viết về chiến tranh từ cái nhìn hiện tại. Tất cả đều là những nguyên cớ để nhà văn nhớ lại quá khứ, hồi tưởng lại những điều đã qua.
Kết cấu trong truyện ngắn Bảo Ninh thể hiện sự tìm tòi đổi mới cùng với dòng chảy của văn học thời kỳ đương đại. Đó là cách kết thúc mở (kết cấu mở), nhiều sức gợi. Có những kết thúc tồn tại như một kiểu trữ tình ngoại đề, có những kết thúc bất ngờ, lại có những truyện kết thúc bỏ lửng, hay có những truyện kết thúc bằng những suy tư chiêm nghiệm của người lính… Tất cả các dạng kết thúc trên trong truyện ngắn Bảo Ninh đều nhằm phân tích, lý giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người và cuộc sống người lính hậu chiến.
Bảo Ninh là người luôn nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, đặc biệt là sự sáng tạo về ngôn ngữ. Ngôn ngữ đậm chất triết lý, chất trữ tình là phương diện nổi bật trong truyện ngắn Bảo Ninh. Tác giả đã tạo nên một hệ thống từ ngữ, cú pháp mang tính đặc trưng, có giá trị thẩm mỹ cao. Đó là kiến trúc câu văn đa dạng, linh loạt; lớp từ ngữ gắn với hồi ức nhân vật; lớp từ ngữ biểu thị ý nghĩa tột cùng của hành động, cảm xúc và hệ thống từ láy. Những phương tiện ngôn từ này tỏ ra đắc dụng để phản ánh hiện thực và bộc lộ tư tưởng của tác giả.
Bên cạnh đó, truyện ngắn Bảo Ninh đã thể hiện các sắc thái giọng điệu: Nếu giọng điệu ngậm ngùi, nuối tiếc, xót xa rất có hiệu quả khi nhà văn hồi tưởng lại những kỷ niệm về tình yêu người lính thời chiến hay nỗi xót xa, ngậm ngùi khi nhắc đến những góc khuất của con người thì giọng điệu khách quan, lạnh lùng lại giúp Bảo Ninh tái hiện, miêu tả hiện thực chiến tranh và cuộc sống con người thời hậu chiến. Trong đó, giọng điệu ngậm ngùi, nuối tiếc, xót xa là giọng điệu chủ đạo.
4. Nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh, chúng tôi nhận thấy, nhà văn đã thể hiện rất rõ cá tính sáng tạo của mình. Tên tuổi và sự nghiệp văn chương của ông đã được khẳng định trong đời sống văn học Việt Nam và thế giới. Do vậy, việc tìm hiểu truyện ngắn Bảo Ninh thêm một lần nữa khẳng định tài năng, thành tựu cùng những đóng góp đáng kể của nhà văn với đời sống thể loại nói riêng và đời sống văn học nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1996), “Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại”, Văn hóa, số 9, trang 29 – 31.
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, Nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học Xã hội.
3. Trần Vân Anh (2010), Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.
4. Lại Nguyên Ân (1989), “Mấy nhận thức về đổi mới trong văn nghệ”,
Văn nghệ, số 42 & 43.
5. Lại Nguyên Ân (2000), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
6. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn học nghệ thuật hiện đại”, Văn học số 9.
7. Nguyễn Thị Bình (1995), “Một phương diện đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người”, Tạp chí Khoa học số 3.
8. Cao Thị Quỳnh Biển, “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn thế hệ nhà văn 198X”, Phongdiep.net.
9. Ngô Ngọc Bội (1988), “Đổi mới tư duy là cuộc cách mạng tự thân”,
Văn nghệ, số 5.
10. Nguyễn Minh Châu (1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ”, Văn nghệ số 49 – 50.
11. Nguyễn Minh Châu (1987), “Người lính chiến tranh và nhà văn”, Văn nghệ số 4.
12. Nguyễn Minh Châu (2009), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học.
13. Nguyễn Công Danh (2010), “Bảo Ninh: Con người của thời quá vãng”, my.opera.com.
14. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học Xã hội.
15. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học văn hoá – Tiếp nhận và suy nghĩ, Nxb Từ điển bách khoa.
16. Đoàn Ánh Dương (2009), “Bảo Ninh – nhìn từ thân phận truyện ngắn”, evan.vnexpress.net.
17. Nguyễn Văn Đạm (1999) - Từ điển tường giải và liên tưởng, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
18. Đặng Anh Đào (1993), “Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay”,
Văn học số 3.
19. Phan cự Đệ (Chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2001) - Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Hoàng Thị Thu Giang, “Cốt truyện và kết cấu truyện ngắn đầu thế kỷ XX – Những biến đổi theo hướng hiện đại”, vannghequandoi.com.vn.
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000) - Từ điển Thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
24. Nguyễn Đức Hạnh (2008), Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 – 1975 nhìn từ góc độ thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Đức Hạnh (2011), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai, Nxb Đại học Thái Nguyên.
26. Hoàng Ngọc Hiến (1987),“Trước hết là đổi mới cách nhìn”, Văn nghệ, số 3 & 4.
27. Nguyễn Thị Hoa (2008), Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện “Cánh đồng bất tận”, Kỷ yếu sinh viên khoa học toàn quốc, Huế.
28. Nguyễn Thị Hoá (2009) Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh,
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.
29. Nguyễn Thái Hợp, “Thế hệ trẻ Việt Nam ngày xưa”,Gm.www.viet- studies.info.