Tức là trong tổng tài sản của ngân hàng tỷ trọng tài sản thanh khoản là bao nhiêu. Tỷ số này cao tức là khả năng thanh khoản của ngân hàng rất tốt. Theo Aspachs & cộng sự (2005), Rychtárik (2009), Praet và Herzberg (2008), Vodová (2011), các nghiên cứu này đã sử dụng 4 tỷ số (L1 = TS thanh khoản/Tổng tài sản, L2 = TS thanh khoản/Tổng vốn huy động ngắn hạn, L3 = Tổng cho vay/Tổng tài sản và L4 = Tổng cho vay/Tổng vốn huy động ngắn hạn) như là biến phụ thuộc để đo lường khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ sử dụng tỷ số L1, tức là Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản để đo lường khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Bởi vì chỉ có tỷ số này mới phản ánh một cách chính xác nhất tình trạng thanh khoản của các ngân hàng, nó cho thấy trong tổng tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ thì những tài sản có khả năng thanh khoản cao nhất chiếm bao nhiêu phần trăm. Trong đó tài sản thanh khoản bao gồm tiền mặt và những tài sản khả nhượng. Theo Duttweiler, tiền mặt được định nghĩa là các khoản dự trữ tiền mặt có sẵn và tất cả các khoản tiền gửi đến hạn được ký gửi tại Ngân hàng Trung ương và các ngân hàng khác. Trên cơ sở các nghiên cứu trước, nghiên cứu này cũng sử dụng tiền mặt, chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán và những chứng khoán có thời gian đáo hạn dưới 1 năm là những Tài sản thanh khoản
(iv) Tỷ lệ dư nợ trên tổng tiền gửi khách hàng (LODE) khi duy trì ở mức phù hợp có thể gia tăng mức hiệu quả hoạt động của các NHTM nhưng khi tỷ lệ này quá cao làm gia tăng áp lực huy động các nguồn vốn chi phí cao lại làm giảm hiệuquả sử dụng nguồn lực của NHTM;
(v) Quy mô của ngân hàng được đo lường bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản của ngân hàng (SIZE). Nếu SIZE có mối tương quan dương với hiệu quả hoạt động của ngân hàng chứng tỏ ngân hàng càng mở rộng quy mô thì hiệu quả hoạt động ngân hàng càng tăng, mở ra cơ hội cho các ngân hàng có thể tiếp tục huy động nhiều nguồn vốn khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Ngược lại, trường hợp xuất hiện mối tương quan âm chứng tỏ nếu mở rộng quy mô thêm nữa có thể làm cho chi phí tăng cao, sự phát triển về trình độ quản lý, nguồn nhân lực không theo kịp sự phát triển của quy mô khiến cho rủi ro của ngân hàng tăng cao, tác động đến hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, với tình hình của VN hiện nay, nghiên cứu kỳ vọng sẽ tìm ra mối quan hệ đồng biến giữa quy mô ngân hàng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Qua đó,
khi quy mô ngân hàng được mở rộng giúp các ngân hàng tận dụng lợi thế nhờ quy mô giúp gia tăng hiệu quả hoạt động ngân hàng
Giả thiết nghiên cứu
Với mô hình nghiên cứu và các biến như trên, giả thiết nghiên cứu được đăt ra như sau:
H1: Tồn tại mối quan hệ đồng biến giữa quy mô tiền gửi và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
H2: Tồn tại mối quan hệ đồng biến giữa cơ cấu nguồn vốn và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
H3: Tồn tại mối quan hệ đồng biến giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
H4: Tồn tại mối quan hệ đồng biến giữa tỷ trọng tín dụng và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
H5: Tồn tại mối quan hệ đồng biến giữa quy mô ngân hàng và hiệu quả hoạt động ngân hàng
Mô hình phân tích các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam được thực hiện thông qua phân tích hồi quy tobit với sự trợ giúp của phần mềm STATA cho dữ liệu bảng không cân bằng thời gian nghiên cứu từ năm 2007– 2017.
3.3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NHẰM PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TRẠNG THÁI THANH KHOẢN VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Trạng thái thanh khoản là một trong những yếu tố chính tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam. Đồng thời, tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng cũng là nhân tố ảnh hưởng đến trạng thái thanh khoản của ngân hàng – đây là một trong những yếu tố nội tại của ngân hàng (bank specific). Vì vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động ngân hàng đặt trong bối cảnh hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam không những giúp tìm hiểu sự tác động của trạng thái thanh khoản đến hiệu quả hoạt động, mà còn tìm hiểu sự ảnh hưởng ngược lại của hiệu quả hoạt động đến trạng thái thanh khoản;
Các biến được lựa chọn là: trạng thái thanh khoản (LATA) và hiệu quả hoạt động (DEA_TE). Chuyên đề đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
()
(3.1)
()
(3.2)
Trong đó: n là số độ trễ,là hiệu ứng ngân hàng cụ thể mà ghi nhận sự khác biệt
có hệ thống giữa các ngân hàng,là sai số ngẫu nhiên có phân phối giống nhau và độc lập, DEA_TE là hiệu quả hoạt động, LATA là trạng thái thanh khoản
Để thực hiện phân tích trên, luận án sử dụng phương pháp ước lượng D – GMM hai bước cho mô hình dữ liệu bảng động (dynamic panel data models).
3.4 DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Dữ liệu nghiên cứu của luận án được lấy từ Thomson Reuter và từ nguồn báo cáo tài chính có kiểm toán (báo cáo tài chính riêng lẻ) của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong năm 2007 đến 2017.
Thời gian nghiên cứu của luận án trải dài trong giai đoạn 2007 đến 2017. Luận án chọn mốc thời gian nghiên cứu 11 năm từ lúc Việt Nam gia nhập WTO đến thời điểm kết thúc đánh giá đợt 1 lộ trình các ngân hàng thí điểm thực hiện theo chuẩn Basel II (Định hướng của NHNN trong lộ trình thực hiên Basel II qua ban hành Công văn 1601/NHNN-TTGSNH ngày 17/3/2014 về việc thực hiện Hiệp ước vốn Basel II). Sau năm 2017. vì sau khi gia nhập WTO, ngành hội nhập đầu tiên là tài chính ngân hàng nên giai đoạn này phát triển rất nhanh và nóng, là thời điểm rất tốt để bắt đầu quan sát và nghiên cứu mối quan hệ giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động, sau năm 2017 khi kết thúc đánh giá đợt 1 lộ trình các ngân hàng thí điểm thực hiện theo chuẩn Basel II NHHH sẽ thực hiện các điều chỉnh nhằm đạt được mục tiêu nên dữ liệu nghiên cứu sẽ bị chệch.
Tổng số lượng ngân hàng trong mẫu nghiên cứu là 34 ngân hàng (tuy nhiên, số lượng ngân hàng tối đa cho vài năm là ít hơn, bởi có sự sáp nhập), bao gồm cả ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP).
63
Bảng3.2: Các ngân hàng thương mại (DMUs) trong mẫu nghiên cứu
Ngân hàng | Ký hiệu | STT | Ngân hàng | Ký hiệu | |
1 | NHTMCP An Bình | ABB | 18 | NHTMCP Quốc Dân | NAV |
2 | NHTMCP Á Châu | ACB | 19 | NHTMCP Bắc Á | NSB |
3 | NHNN&PTNT Agribank | AGR | 20 | NHTMCP Phương Đông | OCB |
4 | NHTMCP Bản Việt | BAN | 21 | NHTMCP Đại Dương | OEB |
5 | NHTMCP Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam | BID | 22 | NHTMCP Xăng Dầu Petrolimex | PGB |
6 | NHTMCP Bảo Việt | BVB | 23 | NHTMCP Sài Gòn | SCB |
7 | NH Công Thương Việt Nam | CTG | 24 | NHTMCP Đông Nam Á | SEA |
8 | NHTMCP Đông Á | EAB | 25 | NHTMCP Sài Gòn Công Thương | SGB |
9 | NHTMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam | EIB | 26 | NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội | SHB |
10 | NHTMCP Đại Á | DAI | 27 | NHTMCP Sài Gòn Thương Tín | STB |
11 | NHTMCP Phát Triển TPHCM | HDB | 28 | NHTMCP Kỹ Thương Việt Nam | TCB |
12 | NHTMCP Kiên Long | KLB | 29 | NHTMCP Tiên Phong | TPB |
13 | NHTMCP Bưu Điện Liên Việt | LVP | 30 | NHTMCP Việt Á | VAB |
14 | NHTMCP Quân Đội | MBB | 31 | NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam | VCB |
15 | NHTMCP Phát triển Mê kong | MDB | 32 | NHTMCP Quốc Tế Việt Nam | VIB |
16 | NHTMCP Hàng Hải | MSB | 33 | NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng | VPB |
17 | NHTMCP Nam Á | NAB | 34 | NHTMCP Đại Chúng/Ngân hàng Miền Tây(WTB) | PVcombank |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nghiên Cứu Về Hiệu Quả Hoạt Động Ngân Hàng Ở Việt Nam.
- Đánh Giá Các Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Trạng Thái Thanh Khoản Và Hiệu Quả Ngân Hàng.
- Chỉ Định Mô Hình Và Lựa Chọn Yếu Tố Đầu Vào Đầu Ra
- Thực Trạng Vốn Chủ Sở Hữu Của Hệ Thống Các Nhtm Việt Nam
- Kết Quả Phân Tích Các Nhân Tố Tác Động Đến Hiệu Quả Hoạt Động Tại Các Nhmtm Việt Nam
- Kết Quả Phân Tích Mối Quan Hệ Giữa Trạng Thái Thanh Khoản Và Hiệu Quả Hoạt Động Tại Các Nhtm Việt Nam
Xem toàn bộ 188 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Bảng3.3: Số ngân hàng trong mẫu nghiên cứu giai đoạn 2007– 2017
Số ngân hàng | Năm | Số ngân hàng | |
2007 | 33 | 2013 | 29 |
2008 | 29 | 2014 | 32 |
2009 | 32 | 2015 | 27 |
2010 | 33 | 2016 | 28 |
2011 | 28 | 2017 | 31 |
2012 | 31 |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả Ở Việt Nam, có những đặc thù về việc công bố thông tin qua báo cáo tài chính, và một số ngân hàng mới được thành lập, cũng như mua bán – sáp nhập trong thời gian nghiên cứu. Nên dữ liệu bảng thu thập từ các ngân hàng thương mại không được cân bằng. Cụ thể:
- Ngày 05/05/2008, ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Tiên Phong (TPBank) được thành lập.
- Ngày 28/3/2008, ngân hàng TMCP Liên Việt (LienVietBank) được thành lập theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 91/GP – NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Năm 2011, ngân hàng được chấp thuận đổi tên thành ngân hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt (LienVietPostBank).
- Ngày 27/7/2010, ngân hàng TMCP các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh đổi tiên thành ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank).
- Ngày 15/11/2011, NHNN chấp thuận hợp nhất 3 ngân hàng TMCP: ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa, và ngân hàng TMCP Đệ Nhất (Ficombank) thành ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB).
- Ngày 28/08/2012, ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank) được sáp nhập vào ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB).
- Ngày 23/05/2013, ngân hàng TMCP Đại Tín (TrustBank) đổi tên và chủ sở hữu thành ngân hàng TMCP Xây Dựng Việt Nam (VNCB). Ngày 05/03/2015, NHNN công bố quyết định mua lại VNCB với giá 0 đồng, và chuyển đổi mô hình hoạt động cũng như thương hiệu là ngân hàng CB.
- Ngày 04/10/2013, ngân hàng TMCP Phương Tây (WesternBank) hợp nhất với công ty Tài chính Dầu Khí Việt Nam (PVFC) thành ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (Pvcombank).
- Ngày 23/11/2013, ngân hàng TMCP Đại Á (DaiABank) được sáp nhập vào ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM (HDBank).
- Ngày 22/01/2014, ngân hàng TMCP Nam Việt (NAV) đổi tên thành ngân hàng TMCP Quốc dân (NCB)
- Ngày 01/10/2015, ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB) và ngân hàng TMCP Phương Nam (SouthernBank) ký kết biên bản bàn giao chính thức sáp nhập toàn hệ thống SouthernBank và STB dưới sự chứng kiến của NHNN.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 đã tổng hợp được các phương pháp sử dụng trong luận án, bao gồm phương pháp đo lường hiệu quả hoạt động ngân hàng bao dữ liệu DEA; phương pháp hồi quy kiểm duyệt Tobit nhằm phân tích các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng và phương pháp ước lượng D-GMM cho mô hình dữ liệu bảng động nhằm đánh giá mối quan hệ giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2007-2017.
Với phương pháp DEA sẽ tiến hành đo lường hiệu quả kỹ thuật (TE) để làm nền tảng thực hiện mục tiêu nghiên cứu phân tích các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng và đánh giá mối quan hệ giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động tại các NHTM Việt Nam.
Phương pháp D-GMM nhằm đánh giá mối quan hệ giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động ở khía cạnh mối quan hệ tuyến tính. Các kết quả nghiên cứu sẽ là bằng chứng thực nghiệm để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động tại các NHTM Việt Nam.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 TỔNG QUAN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM, THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ THANH KHOẢN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM. Mục đích chương 4 là chuyển tải kết quả nghiên cứu cho mô hình và phương pháp ở chương 3. Bên cạnh đó, chương 4 cũng lược khảo về sự phát triển hệ thống ngân hàng, diễn biến và thực trạng quản trị thanh khoản của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu nhằm kết nối và đối sánh giữa hoạt động thực tiễn với kết quả nghiên cứu định lượng.
Trọng tâm của chương 4 vẫn là trình bày các kết quả nghiên cứu đạt được với thứ tự như sau: (i) một là, kết quả đo lường hiệu quả hoạt động ngân hàng qua mô hình hiệu quả DEA kỹ thuật; (ii) hai là, phân tích các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam; (iii) ba là, phân tích mối quan hệ giữa trạng thái thanh khoản và hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2007-2017.
4.1.1 Tổng quan hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Sau năm 1986, nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, hàng loạt những chính sách đổi mới, mà ngày nay đã góp phần to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam như: chính sách cải cách thuế, tái cải cách giá, cải cách sở hữu nhà nước…Nhưng hệ thống NH Việt Nam vẫn là hệ thống 1 cấp, không có sự tách biệt giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh. NHNN vừa đóng vai trò là NHTW vừa đóng vai trò là NHTM. Việc quản trị thanh khoản của các NHTM Việt Nam giai đoạn này khá chặt chẽ, từng doanh nghiệp, hợp tác xã phai xây dựng kế hoạch thu chi tiền mặt gửi các ngân hàng, tiếp đến các ngân hàng sẽ tổng hợp gửi chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố trực thuộc để xét xuyệt.
Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NH Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp, bao gồm NHNN thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và NH; và cấp NH kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ NH. Nhưng đặc biệt là hoạt động chuyển dịch mô hình ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Lúc này, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) trở thành ngân hàng trung ương có vai trò điều hành chính sách tiền tệ, và hình thành hệ thống ngân hàng cấp hai đáp ứng nhu cầu tài chính
– ngân hàng của thị trường như ngân hàng thương mại nhà nước (SOCB – State owned commercial banks), ngân hàng thương mại cổ phần (JSCB – Joint-stock commercial banks), ngân hàng nước ngoài (FB – Foreign banks). Trong thời gian này, 4 NHTMNN lớn đã được thành lập gồm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Bắt đầu từ năm 1991 đến 2001, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã tiến hành cải cách, sắp xếp, thay thế…để tạo một hệ thống ngân hàng thương mại hiệu quả. Đồng thời, thời gian này, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trở thành mạch máu của cả nền kinh tế, là nơi cung cấp phần lớn nguồn vốn phục vụ nhiều đối tượng của nền kinh tế. Lúc này, hoạt động tái cơ cấu tiến hành khá quyết liệt nhằm gia tăng tính hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam.
Đến năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng ra đời đã thừa nhận nhiều loại hình sở hữu NH, giúp bộ mặt ngành NH thay đổi lớn với sự bùng nổ về số lượng NH. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997, một số NH do kinh doanh không hiệu quả nên đã bị phá sản hoặc bị rút giấy phép hoạt động. Viêc quản trị thanh khoản của các ngân hàng cũng từng bước chuyển đổi theo cơ chế thị trường, giai đoạn này NHNN không quản lý thu chi của các ngân hàng mà quản lý định mức tồn quỹ của các NHTM. Các NHTM phải phân bổ định mức tồn quỹ tiền mặt cho các chi nhánh của mình.
Cùng với tiến trình tái cơ cấu lại toàn diện hệ thống NH nhằm củng cố và phát triển theo hướng tăng năng lực quản lý về tài chính đồng thời giải thể, sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại các NHTMCP yếu kém về hiệu quả kinh doanh nên số lượng NH ở Việt Nam đã giảm còn 75 đơn vị vào năm 2005. Giai đoạn năm 2005 – 2006, hệ thống ngân hàng Việt Nam có hiện tượng mở rộng mạng lưới hoạt động khắp nơi, cùng với sự tăng trưởng của tiền gởi và tín dụng (trên 30%). Đồng thời, các luật định hạn chế hoạt động của ngân hàng nước ngoài cũng được dần bãi bỏ, đã giúp cho hệ thống ngân hàng trở nên đa dạng thành phần bởi sự xuất hiện của nhiều ngân hàng nước ngoài (FB). Nền kinh tế Việt Nam nói chung, hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng đã và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.