Như vậy, xét về góc độ lý luận, có thể khái quát hóa khái niệm nhóm công ty trong khoa học pháp lý như sau: nhóm công ty là sự t.ập hợ.p của các ph.áp nh.ân độc lập về mặt đ.ịa v.ị phá.p l.ý, gồm ít nhất một công ty mẹ và một công ty con. Trong đó, công ty mẹ là công ty có khả năng tác động hoặc chi phối hoạt động của công ty con hay còn gọi là khả năng kiểm soát đối với công ty con.
1.2.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, nhóm công ty không phải một pháp nhân và không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật hay phải có nghĩa vụ với bất cứ bên nào khác với t.ư c.ác.h n.h.ó.m. Thay vào đó, mỗi thành viên trong nhóm công ty sẽ là một pháp nhân độc lập, có tài sản riêng, chịu trách nhiệm riêng về hoạt động kinh doanh của mình. Các công ty nắm giữ vốn góp tại công ty khác chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty đó.
Thứ hai, các công ty trong nhóm công ty có mối quan hệ cơ hữu về vốn. Cụ thể, công ty mẹ nắm giữ toàn bộ hoặc một phần vốn góp đủ để chi phối công ty con. Tỷ lệ mà công ty mẹ nắm giữ vốn góp để có quyền chi phối công ty con do pháp luật từng quốc gia quy định nhưng thông thường là trên 50% vốn góp của công ty con. Trong nhóm công ty cũng tồn tại các công ty không có mối quan hệ trực tiếp về vốn với nhau. Đó có thể là các công ty con của cùng một công ty mẹ hoặc trường hợp công ty mẹ và công ty con của công ty con (công ty cháu).
Thứ ba, ngoài mối quan hệ về vốn, để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các công ty trong nhóm công ty luôn có mối liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó có thể là mối liên kết theo chiều dọc nếu đầu ra của công ty này là đầu vào của công ty khác, hoặc là mối liên kết theo chiều ngang nếu các công ty sản xuất kinh doanh cùng một loại mặt hàng (trong trường hợp này, thường là các công ty sẽ hoạt động ở những thị trường khác nhau) hoặc như trong nền kinh tế hiện đại thì có thể là mối liên kết cả theo chiều dọc và theo chiều ngang khi mà sản phẩm dịch vụ của các công ty trong nhóm công ty tạo thành một hệ sinh thái hoàn chỉnh trong một lĩnh vực nhất định.
1.2.3. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con theo pháp luật một số quốc gia
Từ những phân tích về các vấn đề cơ bản trong lý thuyết công ty và vì đối tượng nghiên cứu chính của đề tài luận văn này là công ty mẹ, công ty con và mối quan hệ giữa chúng nên phần tiếp theo đây của luận văn sẽ là những nội dung tìm hiểu về khái niệm công ty mẹ và công ty con và mối quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con theo quan niệm của một số quốc gia trên thế giới.
Như đã đề cập, pháp luật của một số quốc gia không định nghĩa cụ thể về nhóm công ty mà thay vào đó đưa ra những quy định để nhận diện công ty mẹ, công ty con trong một nhóm công ty. Hầu hết các quốc gia đều coi công t.y mẹ và công ty con là các công ty có quan hệ với nhau trong đó công ty này có khả năng kiểm soát đối với công ty kia thông qua việc sở hữu cổ phần, phần vốn góp hay quyền biểu quyết tại công ty đó. Tỷ lệ sở hữu của một công ty đối với một công ty khác để có thể trở thành công ty mẹ - công ty con tùy thuộc vào quy định pháp luật của từng quốc gia nhưng nhìn chung đều giống nhau ở một điểm là phải đảm bảo khả năng chi phối hay khả năng kiểm soát của công ty mẹ đối với công ty con theo quy định của pháp luật quốc gia đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con - 1
- Trách nhiệm của công ty mẹ đối với hành vi của công ty con - 2
- Lý Thuyết Về Công Ty Và Sự Xuất Hiện Của Nhóm Công Ty
- Các Quan Điểm Lý Luận Về Trách Nhiệm Của Công Ty Mẹ Đối Với Hành Vi Của Công Ty Con
- Bất Cập Từ Mô Hình Công Ty Mẹ - Công Ty Con Và Quy Định Của Các Quốc Gia Về Trách Nhiệm Của Công Ty Mẹ
- Sử Dụng “Công Ty Bình Phong” Để Che Giấu Tài Sản
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Ở Anh, một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác (công ty con) khi đáp ứng một trong các điều kiện:
- Nắm giữ phần lớn quyền biểu quyết tại công ty con;
- Là một thành viên hay cổ đông của công ty con và có quyền chỉ định hay bãi miễn đa số thành viên hội đồng quản trị của công ty con;
- Có quyền chi phối công ty con theo quy định tại điều lệ công ty con hoặc theo một thỏa thuận kiểm soát giữa 2 công ty với nhau;
- Là một thành viên hay cổ đông của công ty con nhưng là thành viên (cổ đông) duy nhất có quyền kiểm soát công ty con đó theo thỏa thuận với các thành viên (cổ đông) khác.17
17 Luật Công ty năm 2006 của Anh (UK Companies Act 2006), phần 38 (Part 38), điều 1162 khoản 2
(section 1162)
Quy định này dựa trên quan điểm thống nhất của Ủy ban Kinh tế Châu Âu về mối quan hệ mẹ - con giữa các công ty, được đề cập tại khoản 1 Điều 1 của Chỉ thị số 83/349/EEC về Hợp nhất báo cáo tài chính của các công ty trách nhiệm hữu hạn18.
Ở Nhật Bản, khái niệm công ty mẹ có thể được tìm thấy ở không dưới hai văn bản quy phạm pháp luật. Nếu theo Luật Công ty của nước này, sự chi phối của công ty mẹ được quy định tại Điều 2 là xuất phát từ việc công ty mẹ sở hữu đa số cổ phần có quyền biểu quyết của công ty con hoặc từ việc công ty mẹ có quyền chi phối hoạt động điều hành của công ty con19. Còn theo Luật Thương mại của Nhật Bản thì quan hệ công ty mẹ - công ty con được xác lập giữa hai công ty khi một công ty nắm trên 50% cổ phần của công ty còn lại.
Tại Úc, khái niệm công ty mẹ và công ty con cũng được quy định tại Luật Công ty. Theo đó, công ty mẹ là công ty thỏa mãn một trong những điều kiện sau: (i) một là, nắm giữ phần lớn số cổ phần của công ty con; (ii) hai là, kiểm soát đa số phiếu biểu quyết thông qua việc sở hữu phần lớn cổ phần ưu đãi biểu quyết của công ty con; hoặc (iii) ba là, có quyền bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm đa số chức danh quản lý trong công ty con.
Tương tự như vậy, tại Hoa Kỳ, pháp luật của hầu hết các bang đều cho rằng quyền chi phối của công ty mẹ biểu hiện ở việc công ty mẹ có thể tác động, kiểm soát công việc kinh doanh của công ty con thông qua quyền biểu quyết chi phối của công ty mẹ tại công ty con. Nếu không có khả năng chi phối này thì việc một công ty sở hữu cổ phần của công ty khác chỉ là quan hệ đầu tư thông thường, và giữa các công ty lúc này không có mối quan hệ mẹ - con.
Ở Việt Nam, khái niệm công ty mẹ đã xuất hiện từ khi có Luật Doanh nghiệp năm 2005 và tiếp tục được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020. Theo đó, công ty mẹ phải là công ty (i) hoặc là sở hữu trên 50% vốn hoặc cổ phần của công ty con, (ii) hoặc có quyền chi phối việc bổ nhiệm phần
18 Directive 83/349/EEC (Bản điện tử xem tại website: https://lexparency.org/eu/31983L0349/ART_1/, ngày truy cập: 15/11/2021)
19 Trần Minh Anh (2019), “Quy định về nhóm công ty trong pháp luật một số quốc gia và những nội dung tham khảo cho Việt Nam”, Viện nghiên cứu lập pháp – UBTV Quốc hội (Bản điện tử xem tại website: http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210349, ngày truy cập: 16/11/2021)
lớn nhân sự trong bộ máy quản lý của công ty con, (iii) hoặc có quyền quyết định nội dung Điều lệ công ty con20.
Từ quy định của các quốc gia trên đây, có thể thấy khoa học pháp lý nói chung có sự thống nhất trong cách nhìn nhận về quan hệ công ty mẹ - công ty con. Đó là mối quan hệ chi phối của một công ty đối với một công ty khác dựa trên cơ sở sự sở hữu về vốn hoặc trên khả năng tác động của công ty mẹ đến những quyết định quan trọng của công ty con trong lĩnh vực nhân sự hay trong vấn đề tổ chức quản lý công ty con.
Như vậy, quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con trên góc độ pháp lý là mối quan hệ giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp, giữa chủ sở hữu và đối tượng sở hữu nhưng ở một mức độ mật thiết và khăng khít nhất định đủ để nhà đầu tư có thể tác động đáng kể đến các hoạt động trọng yếu của công ty mà mình góp vốn. Mặc dù vậy, nếu công ty con là một pháp nhân độc lập (nghĩa là có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm về hoạt động của mình bằng chính tài sản của mình, tách bạch với tài sản của công ty mẹ) thì theo chế độ trách nhiệm hữu hạn, công ty mẹ chỉ chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ tài sản của công ty con trong phạm vi phần vốn góp hay cổ phần của mình.
Ngoài góc độ pháp lý, trên thực tế mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con còn cần được xem xét trên góc độ kinh tế bởi lẽ chính từ nhu cầu về kinh tế mới khiến các công ty mẹ và công ty con ra đời. Như đã nêu, việc hình thành nhóm công ty xuất phát từ nhu cầu của những nhà đầu tư về mở rộng sản xuất kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận trong khi lại khoanh vùng được rủi ro. Do đó, mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con không dừng lại ở việc công ty mẹ quyết định bổ nhiệm, thay thế nhân sự quản lý hay quyết định nội dung điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty con. Đó chỉ là cơ sở hình thành và là nền tảng để công ty mẹ thực hiện quyền chi phối của mình đối với công ty con trong các hoạt động kinh tế, từ tầm vĩ mô như quyết định chiến lược phát triển của công ty con đến những hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên như việc công ty con là nguồn bảo đảm đầu ra cho sản phẩm của công ty mẹ hoặc ngược lại. Chính. vì tồn tại sự liên quan về mặt lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ và công ty con như vậy nên không thể phủ nhận rằng công ty mẹ có vai trò nhất
20 Khoản 1 Điều 195 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty con và về logic thì phải ch.ịu t.rách nh.iệm liê.n đớ.i về những ả.nh hưở.ng của công ty mẹ. đối với cô.ng t.y con.
1.3. Trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi của công ty
1.3.1. Khái niệm “trách nhiệm” và “trách nhiệm pháp lý”
Sau khi thành lập và có tư cách pháp nhân, công ty trở thành một chủ thể trong đời sống xã hội và cũng có các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm như các chủ thể khác. T.ron.g ti.ế.ng Vi.ệt, thuật ngữ “tr.ách nhi.ệm” c.ó th.ể đư.ợ.c hi.ể.u t.h.eo h.ai ng.h.ĩa: Mộ.t l.à “ph.ần vi.ệc đư.ợc gi.ao ch.o ho.ặc c.oi như .đư.ợc gi.ao ch.o, ph.ả.i bả.o đả.m l.à.m tr.ò.n, n.ế.u k.ế.t q.u.ả kh.ô.ng t.ố.t th.ì ph.ải g.á.nh ch.ị.u ph.ầ.n h.ậ.u qu.ả”, hai là “s.ự r.à.ng bu.ộ.c đ.ố.i v.ớ.i l.ờ.i
n.ó.i, h.à.nh v.i c.ủ.a m.ì.nh, b.ả.o đ.ả.m đ.ú.ng đ.ắ.n, n.ế.u s.a.i t.r.á.i th.ì ph.ải g.ánh ch.ịu ph.ầ.n h.ậ.u qu.ả” (Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003 của nhà xuất bản Đà Nẵng). Th.e.o ha.i c.á.ch đ.ị.nh ngh.ĩa nh.ư tr.ê.n th.ì tr.á.ch nh.i.ệ.m c.ó nh.i.ều đi.ể.m t.ư.ơ.ng đ.ồ.ng v.ớ.i ngh.ĩ.a v.ụ, nh.ư.ng
n.ó c.ũ.ng h.à.m ch.ứ.a m.ộ.t đ.i.ểm kh.á.c b.i.ệt q.u.an tr.ọ.n.g, đ.ó l.à y.ế.u t.ố “h.ậ.u q.u.ả”. Vớ.i tr.á.ch
nh.i.ệ.m pháp l.ý, t.ứ.c là t.r.á.ch nh.i.ệ.m đ.ã đ.ư.ợ.c đi.ề.u ch.ỉ.nh v.à b.ả.o v.ệ b.ở.i c.á.c q.u.y ph.ạ.vm
ph.á.p lu.ậ.t do N.h.à n.ư.ớc b.an hà.n.h, c.á.c “h.ậ.u q.u.ả” n.ày s.ẽ l.à “h.ậ.u qu.ả b.ấ.t l.ợi” đư.ợc á.p
đặ.t l.ên n.hữ.ng ng.ư.ờ.i ph.ả.i ch.ị.u tr.á.ch nh.i.ệ.m ph.á.p l.ý. Tr.á.ch nhi.ệ.m ph.á.p l.ý lu.ô.n l.à
m.ột c.h.ế đ.ị.n.h q.u.an tr.ọ.n.g đ.ố.i v.ớ..i m.ọ.i h.ệ th.ố.ng l.u.ậ.t, v.ì n.ó ch.í.nh l.à b.ả.o đ.ả.m c.h.o s.ự
t.u.â.n th.ủ ph.áp lu.ậ.t củ.a c.ác th.à.nh vi.ên tr.o.ng x.ã h.ộ.i. Tr.á.ch nh.i.ệ.m p.h.á.p l.ý x.u.ất h.i.ệ.n
kh.i c.ó s.ự v.i ph.ạ.m ph.á.p l.u.ật, l.à h.ậ.u qu.ả c.ủ.a h.à.n.h v.i v.i ph.ạ.m v.à th.ể h.i.ệ.n s.ự r.ă.n đ.e c.ủ.a N.h..à n.ư.ớ.c đ.ố.i v.ớ.i nh.ữ.ng h.à.nh v.i v.i ph.ạ.m.
Th.e.o g.i.á.o tr.ì.n.h l.ý l.u.ận Nh.à n.ư.ớc v.à ph.á.p l.u.ậ.t năm 2006 của tr.ư.ờ.ng Đ.ạ.i h.ọ.c L.u.ậ.t H.à N.ộ.i, tr.á.c.h nh.i.ệ.m ph.á.p l.ý đ.ư.ợ.c h.i.ể.u l.à h.ậ.u q.u.ả b.ấ.t l.ợ.i (s. vự t.r.ừ.ng ph.ạ.t) đ.ố.i
v.ớ.i c.h.ủ th.ể v.i ph.ạ.m ph.á.p l.u.ậ.t, t.h.ể h.i.ệ.n ở m.ố.i qu.a.n h.ệ đ.ặ.c b.i.ệ.t g.i.ữ.a N.h.à n.ư.ớ.c v.ớ.i
c.á.c ch.ủ th.ể v.i p.h.ạ.m p.h.á.p l.u.ậ.t, đ.ư.ợc c.á.c q.u.y ph.ạ.m ph.á.p l.u.ật x.á.c l.ậ.p v.à đ.i.ề. .u ch.ỉ.nh,
t.r.o.ng đ.ó c.h.ủ t.h.ể vi ph.ạ.m ph.á.p lu.ậ.t ph.ả.i c.h.ịu n.h.ữ.ng h.ậ.u q.u.ả b.ấ.t l.ợ.i, nh.ữ.ng b.i.ệ.n
ph.á.p c.ư.ỡ.ng ch.ế đ.ư.ợ.c qu.y đ.ị.nh ở c.h.ế t.à.i c.ác q.u.y p.h.ạm ph.áp lu.ậ.t.
Nh.ì.n v.à.o kh.á.i n.i.ệ.m tr.ê.n c.ó t.h.ể th.ấ.y, tr.ách nhi.ệ.m ph.áp l.ý c.ó c.á.c đ.ặ.c đ.i.ể.m c.ơ b.ản s.au:
Đ.ầ.u t.i.ê.n, nh.ư đ.ã tr.ì.nh b.à.y, y.ế.u t.ố qu.a.n t.r.ọ.ng nh.ấ.t c.ủ.a tr.á.ch nh.i.ệ.m ph.á.p l.ý là “h.ậ.u q.u.ả b.ấ.t l.ợ.i” hay chính là các chế tài được áp dụng. T.há.i đ.ộ củ.a Nh.à n.ư.ớ.c đ.ố.i
v.ớ.i c.á.c h.à.nh v.i v.i ph.ạ.m ph.á.p l.u.ật đ.ư.ợ.c th.ể h.iện qu.a v.i.ệc á.p d.ụ.ng c.ác c.h.ế t.à.i v.à c.á.c
ch.ế t.à.i n.à.y đ.ư.ợ.c đ.ả.m b.ả.o t.h.ự.c hi.ệ.n b.ằ.ng b.ộ máy c.ư.ỡ.ng c.h.ế c.ủ.a N.h.à n.ư.ớ.c.
Đ.ặ. .c đ.i.ể.m th.ứ h.ai l.à t.í.nh đ.ề.n b.ù., b.ở.i m.ụ..c đ.í.c.h c.ủ.a tr.á.ch nh.i.ệ.m ph.á.p l.ý kh.ô.ng
ch.ỉ l.à tr.ừ.ng tr.ị hà.n.h v.i v.i ph.ạ.m m.à b.ê.n c.ạ.nh đ.ó c.òn l.à s.ự kh.ô.i p.h.ục l.ạ.i tì.nh tr.ạ.ng
t.ư.ơng ứ.n.g v.ớ.i p.h.ầ.n h.ậ.u q.u.ả m.à ng.ư.ờ.i v.i ph.ạ.m đ.ã g.â.y r.a do kh.ô.ng th.ự.c hi.ệ.n ng.h.ĩa v.ụ c.ủ.a m.ì.nh.
Đ.ặ.c đ.i.ể.m v.ề h.ình th.ứ.c c.ủ.a t.r.á.ch nhi.ệ.m ph.á.p l.ý th.ể h.i.ện tr.á.ch nh.i.ệ.m ph.á.p l.ý
ch.ỉ t.ồ.n t.ạ.i k.h.i đ.ư.ợ.c q.u.y đ.ị.nh t.r.o.ng c.ác v.ă.n bả.n ph.á.p l.u.ật d.o c.ơ qu.an c.ó t.h.ẩ.m qu.y.ền
c.ủ.a N.h.à n.ư.ớ.c b.a.n h.à.nh, nghĩa là ch.ỉ Nh.à n.ư.ớ.c c.ó qu.y.ề.n x.á.c đ.ị.nh h.à.nh v.i n.à.o l.à v.i
p.h.ạm p.h.áp l.u.ậ.t v.à c.á.c c.h.ế t.à.i t.ư.ơ.ng ứ.n.g v.ớ.i m.ỗ.i v.i ph.ạ.m đ.ó.
Trong phạm vi bài luận này, những nghiên cứu dưới đây về các loại trách nhiệm pháp lý chỉ giới hạn trong khuôn khổ trách nhiệm của các công ty hay các pháp nhân.
1.3.2. Trách nhiệm dân sự
Theo khoản 1 điều 87 Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam thì “pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân”. Như vậy, một công ty cũng có trách nhiệm dân sự của mình như các chủ thể khác trong xã hội. Tuy nhiên, để hiểu cho đúng về trách nhiệm dân sự thì cần nắm được khái niệm và bản chất của trách nhiệm dân sự.
T.he.o T.ừ đ.i.ể.n gi.ả.i th.í.ch th.u.ậ.t ng.ữ l.u.ậ.t h.ọ.c c.ủ.a Tr.ư.ờng Đ.ạ.i h.ọ.c L.u.ậ.t H.à N.ộ.i,
thì “Tr.á.ch nh.i.ệ.m d.â.n s.ự l.à tr.á.ch nh.i.ệ.m ph.á.p l.ý m.a.ng t.í.nh t.à.i s..ả..n đ.ư.ợ.c á.p d.ụ.ng đ.ố.i
v.ớ.i ng.ư.ờ.i v.i ph.ạ.m ph.á.p l.u.ậ.t d.â.n s.ự nh.ằ.m b.ù đ.ắ.p t.ổ.n th.ấ.t v.ề v.ậ.t c.h.ấ.t, t.i.nh th.ầ.n ch.o
21
ng.ườ.i b.ị th.i.ệ.t h.ạ.i” . N.ế.u h.i.ể.u th.e.o ngh.ĩ.a n.à.y, trách nhiệm dân sự l.à l.o.ạ.i tr.á.c.h
nh.i.ệ.m ph.á.p l.ý đ.ư.ợ.c đ.ặ.t r.a kh.i và c.h.ỉ kh.i c.ó s.ự v.i ph.ạ.m ph.á.p l.u.ậ.t d.â.n s.ự.
Từ khái niệm chung trên đây, trách nhiệm dân sự của một công ty được hiểu là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với công ty khi công ty có hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Hiểu một cách đơn giản nhất thì trách nhiệm dân
21 Nguyễn Ngọc Hòa (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Tố tụng Dân sự, Nxb. Công an nhân dân, trang 42.
sự là trách nhiệm b.ù đ.ắp nh.ững thi.ệt hạ.i về v.ật ch.ất, ti.nh th.ầ.n cho bê.n b.ị th.iệ.t hạ.i do lỗi của công ty gây ra.
Trách nhiệm dân sự của công ty có thể phát sinh từ các quan hệ hợp đồng mà công ty xác lập hoặc cũng có thể là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. P.h.á.p lu.ậ.t mộ.t v.à.i qu.ố.c gi.a kh.ô.ng c.ó s.ự ph.â.n b.i.ệ.t r.ạ.ch r.ò.i v.ề tr.á.ch nhi.ệ.m d.â.n s.ự tr.o.ng h.ợ.p
đ.ồ.ng h.a.y ng.o.à.i h.ợ.p đ.ồ.ng. Như tr.o.ng ph.á.p lu.ậ.t d.â.n s.ự của Nh.ậ.t B.ả.n, tr.á.ch nh.i.ệ.m
d.â.n s.ự tr.o.ng h.ợ.p đ.ồ.ng kh.ô.ng đ.ư.ợ.c qu.y đ.ị.nh c.ụ th.ể m.à. ph.á.p lu.ậ.t ch.ỉ. ch.i.a r.a h.a.i
22
tr.ư.ờ.ng h.ợ.p ch.ị.u tr.á.ch nh.i.ệ.m l.à. tr.á.c.h nh.i.ệ.m d.o. kh.ô.n.g th.ự.c h.i.ệ.n ngh.ĩ.a v.ụ v.à tr.á.c.h nh.i.ệ.m d.o v.i ph.ạ.m ng.h.ĩ.a v.ụ. .
Trong khi đó, quy định về trách nhiệm dân sự trong Bộ luật Dân sự năm 1804 của Pháp vốn có sự phân biệt cơ bản giữa trách nhiệm hợp đồng (điều chỉnh các thiệt hại phát sinh trong khuôn khổ của mối quan hệ hợp đồng) và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (điều chỉnh tất cả các thiệt hại khác). Hai chế định này hoàn toàn loại trừ lẫn nhau: ngay khi có quan hệ hợp đồng giữa các bên thì chế định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng sẽ không được áp dụng. Tuy nhiên, kể từ cuối thế kỷ XIX, nhiều chế độ trách nhiệm dân sự trong các luật riêng (ví dụ trong vấn đề tai nạn giao thông, vấn đề sản phẩm tiêu dùng bị lỗi, vấn đề tai nạn lao động…) đã không còn thống nhất với chế định trong luật chung. Các quy định của luật chuyên ngành đã bỏ qua sự phân biệt giữa trách nhiệm pháp lý theo hợp đồng và trách nhiệm pháp lý ngoài hợp đồng. Theo đó, chế độ trách nhiệm dân sự của bên vi phạm là giống nhau cho dù có hoặc không có hợp đồng giữa các bên. Vì vậy, tại pháp lệnh số 2016-131 ngày 10/02/2016 sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 1804, chế định trách nhiệm dân sự đã được điều chỉnh theo hướng không phân biệt trách nhiệm trong hay ngoài hợp đồng.
Tại Việt Nam, tr.o.ng B.ộ. l.u.ậ.t D.â.n s.ự h.i.ệ.n h.à.n.h, q.u.y đ.ị.nh v.ề tr.á.ch nh.i.ệ.m d.â.n
s.ự d.o v.i ph.ạ.m h.ợ.p đ.ồ.ng đ.ư.ợ.c x.â.y d.ự.ng .n.ê.n b.ở.i c.ác q.u.y ph.ạ.m đ.i.ề.u ch.ỉ.nh ch.ế đ.ị.nh
h.ợ.p đ.ồ.ng. Nói c.á.ch kh.á.c, q.u.y đ.ị.nh v.ề tr.á.ch nh.i.ệ.m d.â.n s.ự tr.o.ng h.ợ.p đ.ồ.ng c.ó th.ể c.o.i
l.à m.ộ.t ph.ầ.n c.ủ.a ch.ế đ.ị.nh h.ợ.p đ.ồ.ng tr.o.ng .ph.á.p l.u.ậ.t d.â.n s.ự. Th.e.o đ.ó, tr.á.ch nh.i.ệ.m
d.â.n s.ự d.o v.i ph.ạ.m h.ợ.p đ.ồ.ng ch.ỉ t.ồ.n t.ạ.i kh.i m.ộ.t h.ợ.p .đ.ồ.ng t.ồ.n t.ạ.i, tr.á.ch nh.i.ệ.m n.à.y
22 Xaca VacaxumTori Aritdumi (1995), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị quốc gia, trang 43.
ch.ỉ ph.á.t s.i.nh kh.i x.u.ấ.t h.i.ệ.n s.ự v.i ph.ạ.m m.ột h.a.y nh.i.ề.u .ngh.ĩ.a v.ụ đ.ư.ợ.c q.u.y đ.ị.nh tr.o.ng
h.ợ.p đ.ồ.ng. Tr.o.ng kh.i đ.ó, tr.á.ch nh.i.ệ.m d.â.n s.ự ng.o.à.i h.ợ.p đ.ồ.ng l.à c.á.c l.o.ạ.i tr.á.ch nhi.ệ.m
d.â.n s.ự ph.á.t s.i.nh b.ê.n ng.o.à.i, kh.ô.ng ph.ụ th.u.ộ.c v.à.o .h.ợ.p đ.ồ.ng, m.à ch.ỉ c.ầ.n t.ồ.n t.ạ.i m.ộ.t
h.à.nh v.i v.i ph.ạ.m ph.á.p l.u.ậ.t d.â.n s.ự, c.ố ý h.a.y v.ô ý, g.â.y th.i.ệ.t .h.ạ.i ch.o ng.ư.ờ.i kh.á.c v.à
h.à.nh v.i n.à.y c.ũ.ng kh.ô.ng l.i.ê.n qu.a.n đ.ế.n b.ấ.t c.ứ m.ộ.t h.ợ.p đ.ồ.ng n.à.o c.ó th.ể c.ó g.i.ữ.a ng.ư.ờ.i g.â.y th.i.ệ.t h.ạ.i .v.à n.g.ư.ờ.i b.ị th.i.ệ.t h.ạ.i.
Cũng cần phải nói thêm: về mức trách nhiệm dân sự đối với một công ty, vấn đề này phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng mà công ty tham gia với tư cách chủ thể và theo quy định của pháp luật nhưng không vượt quá giới hạn là tổng giá trị tài sản của công ty. Đây chính là nguyên lý trách nhiệm hữu hạn, là quan điểm xuyên suốt trong khoa học pháp lý về công ty tại hầu khắp các quốc gia trên thế giới.
1.3.3. Trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân vi phạm trước Nhà nước và chỉ Nhà nước mới có quyền áp dụng chế tài đối với các chủ thể đó. Đây là loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng trong hoạt động quản lý nhà nước theo quy định của luật hành chính. Đó là việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính mang tính chất xử phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi ích bị xâm hại được quy định trong những chế tài của quy phạm pháp luật hành chính bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Do đó trách nhiệm hành chính thể hiện sự phản ứng tiêu cực của Nhà nước đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể đó phải chịu các hình thức xử phạt hành chính, tức là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, bị thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần.
Có nhiều hình thức xử phạt vi phạm hành chính khác nhau như: Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; Trục xuất. Trong đó, hình thức cảnh cáo, phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng là hình thức xử phạt chính. Các hình thức còn lại có thể được quy định là hình thức phạt bổ sung hoặc hình thức phạt chính. Ngoài các biện