Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Và Nâng Cao Hiệu Quả Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam Đi Làm Việc Ở Nước Ngoài Theo Hợp Đồng

ngoài mối quan hệ thống nhất với Hiến pháp, pháp luật lao động, luật việc làm, pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hình sự, pháp luật khiếu nại, tố cáo, pháp luật tố tụng dân sự,… Không những vậy pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việcnước ngoài theo hợp đồng còn phải tương thích với các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đó là các công ước quốc tế bảo vệ người lao động di trú của Liên Hợp Quốc, của ILO: Công ước quốc tế về quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, 1990; Công ước về xóa bỏ mọi các hình thức phân biệt chủng tộc, 1965; Công ước về xóa bỏ mọi các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, 1979; Công ước số 97 về di trú tìm việc làm (sửa đổi), 1949; Công ước 143 về người lao động di trú, 1975;...sau đến là các thỏa thuận hợp tác song phương giữa Việt Nam và quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam: Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan,... Sự thống nhất là yêu cầu bắt buộc đảm bảo được tính khoa học, tính lâu dài của hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể liên quan áp dụng một cách dễ dàng.

Thứ tư, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, thực trạng xã hội. Thực tiễn vừa là động lực vừa là mục tiêu của việc hoàn thiện pháp luật. Nhu cầu thực tế cần pháp luật bảo vệ người lao động những cái gì, phải áp dụng biện pháp ra sao, phải kiểm soát các cá nhân, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ở những mặt nào,... là cơ sở để hình thành các quy phạm pháp luật bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài, mức độ phù hợp với thực tiễn xã hội càng cao thì tính khả thi của pháp luật cũng càng cao, có như vậy mới đạt mục đích pháp luật là công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và có có khả năng ngăn ngừa, kiểm soát được các rủi ro, nguy cơ có thể xảy ra với người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải được nghiên cứu một cách toàn diện ở cả ba giai đoạn của tiến trình di cư ra làm việc ở nước ngoài của người lao động Việt Nam. Đây là yêu cầu mang tính chất đặc thù của việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.Có đáp ứng được yêu cầu này thì mục tiêu bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài mới đạt được trọn vẹn.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Để hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và tiến gần hơn với các quy chuẩn quốc tế trong vấn đề bảo vệ người lao động di trú, pháp luật Việt Nam cần có những sửa đổi, bổ sung sau:

3.2.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài

* Quy định cụ thể các đối tượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Tuy có quan điểm bảo vệ người lao động một cách toàn diện cả trước khi người lao động đi làm việc ở nước ngoài song khái niệm về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hiện nay lại chưa thể hiện được điều đó. Để có nội dung bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đầy đủ trước hết cần quy định lại khái niệm “Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” theo hướng “Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” bao gồm cả những người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài hợp pháp và người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài

bất hợp pháp, người lao động chuẩn bị đi làm việc ở nước ngoài, trong thời gian lam việc ở nước ngoài và sau thời gian làm việc ở nước ngoài để có phương hướng bảo vệ toàn diện hơn. Chúng ta có thể định nghĩa Người lao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi là người

lao động đi làm việc ở nước ngoài) là công dân Việt Nam đã, đang và sẽ làm một công việc trong một khoảng thời gian nhất định có hưởng lương tại một quốc gia khác”. Từ đó pháp luật xây dựng riêng các nội dung bảo vệ và biện pháp bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài (cả hợp pháp và bất hợp

Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp - 13

pháp) và người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hợp pháp.

Việc quy định như thế thể hiện quan điểm vì mục tiêu con người, tôn trọng

quyền con người, đồng thời nâng cao trách nhiệm quốc gia và tính nhân văn

cao cả trong việc bảo vệ công dân của mình.

Các quy định pháp luật bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cần chú trọng hơn đối với đối tượng lao động là nữ giới. Theo đó Quy định các hợp đồng liên quan đến người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải chứa đựng các nội dung bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới và bảo vệ trực tiếp quyền lợi của lao động nữ, bổ sung điều khoản cấm phân biệt đối xử với lao động nữ dưới mọi hình thức như phân biệt về thời gian làm việc, điều kiện, môi trường làm việc, tiền lương, tiền công kém công bằng hơn so với nam giới,... Về tối đa quyền lợi của người lao động Việt Nam không được thấp hơn quyền lợi và lao động các nước khác đang thụ hưởng. Cần phải hạn chế dẫn đến loại bỏ hoàn toàn các quy định giới hạn phụ nữ chỉ được làm việc ở một số ngành nghề và nhóm nghề truyền thống theo giới.

* Bổ sung các quy định ràng buộc trách nhiệm đào tạo và giáo dục định hướng đối với người lao động trước khi xuất cảnh, cụ thể:

- Quy định trách nhiệm đào tạo và giáo dục định hướng bắt buộc đối với người lao động trước khi xuất cảnh ở tất cả các thị trường lao động đặc

biệt là nữ giới nhằm đảm bảo kiến thức cần thiết và nhận thức tối thiểu về ngoại ngữ, pháp luật, tập quán sinh hoạt của nước tiếp nhận.

- Quy định trách nhiệm đào tạo tay nghề, kỷ luật lao động cho người lao động phù hợp với yêu cầu của chủ sử dụng lao động nước ngoài.

- Quy định những điều kiện tối thiểu đối với cơ sở, trung tâm đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tránh tình trạng “thả nổi tự do” cho doanh nghiệp tự thuê giáo viên hướng dẫn đến việc không đảm bảo chất lượng giảng dạy, hoặc đào tạo mang tính hình thức, đối phó với quy định của nhà nước. Quy định giáo viên giảng dạy phải là những người có trình độ, bằng cấp, am hiểu rõ pháp luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, pháp luật hình sự, dân sự, hành chính,... và pháp luật của quốc gia tiếp nhận.

- Quy định rõ thẩm quyền kiểm tra sát hạch “đầu ra” đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thẩm quyền đó có thể chỉ giới hạn ở một số trung tâm, cơ sở sát hạch tránh tình trạng cấp giấy phép thẩm định tràn lan và tiêu cực trong thi cử. Cần đặc biệt chú trọng yếu tố này vì giáo dục định hướng và đào tạo nghề tốt nghĩa là đã cung cấp cho người lao động mốt cái “cần câu” tốt trước khi họ ra “biển lớn”. Với những kiến thức cơ bản về ngoại ngữ, tay nghề, pháp luật... người lao động Việt Nam sẽ còn được nâng cao khả năng tự bảo vệ mình khi ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng.

- Quy định rõ mức học phí mà người lao động phải đóng và tối thiểu thời gian đào tạo để tránh tình trạng các cơ sở đào tạo tự ý thu quá cao phí đào tạo của người lao động đồng thời đảm bảo các kiến thức cần thiết khi đi làm việc ở nước ngoài được truyền đạt đến người lao động một cách đầy đủ.

- Trong chiến lược phát triển dài hạn của chính sách giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các quy định hướng nghiệp và đào tạo nghề cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần phải căn

cứ vào nhu cầu thực tế của thị trường lao động ngoài nước. Đây là một hướng quy định nhằm hỗ trợ cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

3.2.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài

* Bổ sung trách nhiệm bảo vệ người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài của một số chủ thể

- Quy định trách nhiệm quản lý, giám sát thường xuyên lao động nữ đang làm việc ở nước ngoài của các chủ thể có liên quan: chế độ báo cáo danh sách lao động nữ đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài hợp đồng, cư trú bất hợp pháp định kỳ hàng tháng, hàng năm cho Ban quản lý lao động Việt Nam tại nước ngoài của các doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, cá nhân

- Quy định thêm trách nhiệm của cơ quan y tế, các cá nhân, tổ chức trong việc giám định sai tình trạng sức khỏe để người lao động không đủ sức khỏe ra nước ngoài làm việc dẫn đến kết quả người lao động bị chết ở nước ngoài hoặc bị chủ sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng và buộc về nước;

- Quy định vai trò của tổ chức Công đoàn của những người lao động Việt Nam tại một quốc gia, một địa phương ở nước ngoài trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và tổ chức các hoạt động tập thể, giúp đỡ lẫn nhau nơi “đất khách quê người”. Theo đó Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cần mở rộng hoạt động đối ngoại với công đoàn nước sở tại để đấu tranh với chủ sử dụng lao động thực hiện đúng hợp đồng lao động và pháp luật lao động, các Công ước quốc tế về lao động nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Khi có tranh chấp phát sinh, Công đoàn cần tích cực đứng về phía người lao động tham gia giải quyết tranh chấp.

- Song song với việc quy định cơ chế bảo vệ người lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài, pháp luật cũng cần chú trọng quy định trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ trong việc tham gia bảo vệ người lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài phù hợp với Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) mà Việt Nam đã phê chuẩn (17/02/1982).

- Quy định doanh nghiệp, các cơ quan có thẩm quyền phối hợp chặt chẽ với Hội Liên hiệp Phụ nữ để giải quyết các quyền lợi cho người lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài.

* Cần quy định cụ thể hơn về cách thức sử dụng Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước.

- Quy định cụ thể hơn cơ chế chi của Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước để đảm bảo việc sử dụng của Quỹ được hiệu quả hơn theo hướng hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người lao động trong các trường hợp gặp rủi ro.

+ Hướng dẫn các trường hợp “rủi ro khách quan khác” bao gồm: suy thoái kinh tế, biến cố chính trị, quốc gia tiếp nhận lao động thay đổi chính sách, pháp luật,... mà người lao động gặp phải để có cơ sở pháp lý rõ ràng hỗ trợ cho người lao động;

+ Bổ sung thêm quy định hỗ trợ chi cho doanh nghiệp dịch vụ phải cử cán bộ ra nước ngoài giải quyết rủi ro cho người lao động bị tai nạn, tai nạn rủi ro, và gặp các rủi ro khách quan khác.

- Quy định nâng mức chi hỗ trợ cho thân nhân người lao động trường hợp người lao động bị chết hoặc cho người lao động gặp tai nạn, rủi ro mà phải về nước trước hạn. Mức chi 10 triệu đồng/ 1 lao động chết, 5 triệu đồng/ 1 lao động gặp rủi ro phải về nước khi mới thực hiện được ít hơn hoặc bằng 50% thời hạn hợp đồng và 3 triệu/ 1 lao động gặp rủi ro phải về nước mà đã thực hiện được hơn 50% thời hạn hợp đồng hiện nay là quá thấp so với tổng ngân sách của Quỹ. Mức hỗ trợ tham khảo có thể tăng lên gấp đôi so với quy

định cũ: Hỗ trợ 20 triệu đồng/ 1 lao động chết, 10 triệu đồng/ 1 lao động gặp tai nạn, rủi ro phải về nước khi mới thực hiện được ít hơn hoặc bằng 50% thời hạn hợp đồng và 6 triệu/ 1 lao động gặp rủi ro phải về nước mà đã thực hiện được hơn 50% thời hạn hợp đồng. Bổ sung thêm quy định về điều chỉnh tăng - giảm mức hỗ trợ cho doanh nghiệp căn cứ dựa vào tổng ngân sách của Quỹ trong từng giai đoạn.

- Quy định trách nhiệm công khai minh bạch, chi tiết các khoản thu - chi của Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước hàng quý, hàng năm để doanh nghiệp và người lao động được biết và tin tưởng vào sự quản lý, hỗ trợ tài chính của Nhà nước.

- Quy định cơ quan có thẩm quyền cần kiểm tra và xử lý nghiêm minh những trường hợp doanh nghiệp cố ý chây ì, không nộp tiền vào Quỹ theo đúng quy định mặc dù đã có thu của người lao động để đảm bảo nguồn thu của Quỹ theo quy định của pháp luật và đảm bảo người lao động được hỗ trợ kịp thời khi có rủi ro xảy ra.

* Sửa đổi, bổ sung các quy định xử lý vi phạm trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Để pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu nhất trừng phạt đối với những đối tượng vi phạm, răn đe và giáo dục đối với các cá nhân, tổ chức khác, các quy định xử lý vi phạm trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo vệ từng cá thể người lao động, theo đó pháp luật cần:

- Bổ sung các hành vi vi phạm của các cá nhân, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của người lao động trong việc chuẩn bị và ký kết hợp đồng như: Hành vi cố ý tuyển lao động thông qua “trung gian, cò mồi”; hành vi đưa ra những điều khoản hợp đồng không rõ ràng hoặc bất lợi nhằm cố ý lừa gạt người lao động

để đẩy người lao động vào tình thế bất lợi khi xảy ra tranh chấp (như: điều khoản yêu cầu người lao động tự nguyện đặt cọc toàn bộ giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ tốt nghiệp (bản gốc), ...

- Nâng cao mức xử phạt hành chính bằng tiền đối với hành vi vi phạm của các cá nhân, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đặc biệt là đối với những vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất và sự tự nguyện ý chí của người lao động dẫn đến người lao động bị lừa dối hoặc rơi vào tình cảnh “tiền mất tật mang”. Mức phạt tiền cụ thể tăng đến bao nhiêu là hợp lý sẽ cần được các cơ quan có thẩm quyền tính toán và quyết định nhưng nhìn chung phải đảm bảo 2 điều kiện:

Thứ nhất tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, và phù hợp với mức phạt của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

Thứ hai đảm bảo đủ mạnh để răn đe đối với các cá nhân, tổ chức cố tình vi phạm và đã “nhờn thuốc” sau nhiều lần xử lý.

Theo đó:

+ Quy định mức phạt tiền đối với hành vi đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài vượt quá số lượng người đã được Cục Quản lý lao động ngoài nước chấp thuận tương ứng với một số lượng người cụ thể đưa đi vượt quá. Quy định như vậy còn đảm bảo được sự công bằng trong việc xử phạt vi phạm đối với các doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp. Mức phạt có thể tham khảo như sau: Phạt tiền: Từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng khi đưa vượt quá đến dưới 10 người; Từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng khi đưa vượt quá từ 10 người đến dưới 30 người; Từ 150.000.000 đồng đến 180.000.000 đồng khi đưa vượt quá 30 người.

+ Quy định thống nhất các quy định về hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả trong Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Nghị định xử phạt vi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2022