5 năm 2001 - 2005" của Sở Lao động - Thương binh và xã hội thành phố Hà Nội…; trên các báo, tạp chí, các trang Web… thường có các bài viết đánh giá về tình hình hoạt động của tổ chức GTVL dưới nhiều góc độ như: "Bàn về việc nâng cao năng lực và hiện đại hóa các trung tâm giới thiệu việc làm" của tác giả Lê Quang Trung, Vụ Lao động - Việc làm đăng trên Bản tin thị trường lao động số 6/2005; bài viết "15 năm hoạt động giới thiệu việc làm và phương hướng đổi mới giai đoạn tới" của tác giả Nguyễn Đại Đồng, Vụ Lao động - Việc làm; bài viết "Vai trò của trung tâm giới thiệu việc làm với chế độ bảo hiểm thất nghiệp" của tác giả Lê Quang Trung, Phó Vụ trưởng Vụ Lao động - Việc làm đăng trên tạp chí Lao động và Xã hội, số 313, từ ngày 16- 30/6/2007…
Các báo cáo, các bài viết liên quan đến hoạt động của tổ chức GTVL chủ yếu ở góc độ kinh tế - xã hội thông qua các hoạt động cụ thể của các trung tâm GTVL như: tư vấn, GTVL, cung ứng lao động và thông tin thị trường lao động, nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của tổ chức GTVL dưới phương diện pháp luật và kinh tế - xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của tổ chức GTVL; thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với hoạt động của tổ chức GTVL; những yêu cầu và các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức GTVL hiện nay.
- Luận giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các tổ chức GTVL hiện nay ở Việt Nam,
- Phân tích thực trạng và đánh giá tình hình thực hiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức và hoạt động của các tổ chức GTVL hiện nay ở Việt Nam.
- Trên cơ sở các vấn đề nghiên cứu ở trên đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức GTVL ở nước ta hiện nay.
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của tổ chức GTVL theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay trong phạm vi cả nước, nhất là trong những năm gần đây.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay - 1
- Quan Niệm Về Việc Làm Ở Việt Nam
- Tổ Chức Giới Thiệu Việc Làm Theo Pháp Luật Lao Động Việt Nam
- Sơ Lược Lịch Sử Pháp Luật Về Tổ Chức Giới Thiệu Việc Làm Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của các tổ chức GTVL cũng như các vấn đề khác có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát và tổng kết thực tiễn.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về "Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay".
- Với kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả hy vọng góp phần nâng cao nhận thức về hoạt động GTVL, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể pháp luật trong việc xây dựng và thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức GTVL.
- Bước đầu luận văn đưa ra yêu cầu, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về tổ chức GTVL ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến chuyên ngành Luật Lao động trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và tổ chức giới thiệu việc làm.
Chương 2: Những quy định của pháp luật lao động về tổ chức giới thiệu việc làm - Thực trạng áp dụng
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM
1.1.1. Quan niệm về việc làm
Lao động và việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới.
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội, việc làm là một khái niệm hết sức trừu tượng. Vì, việc làm được coi là một trong những vấn đề sống còn của toàn xã hội, nó không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là có việc để làm, mà việc làm còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau như: kinh tế, xã hội, chính trị, pháp lý cũng như phải đáp ứng được các yêu cầu đặt ra mới được coi là việc làm.
Dựa vào đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi nước, tùy theo cách tiếp cận khác nhau, song phải phù hợp với các tiêu chí chung trong quan niệm về việc làm của ILO, nên các quốc gia trong đó có Việt Nam đã đưa ra quan niệm về việc làm khác nhau.
1.1.1.1. Quan niệm về việc làm của các nước trên thế giới
Việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội hết sức nhạy cảm, an toàn về việc làm là một trong những yếu tố cơ bản để bảo đảm cho sự phát triển và bền vững của mỗi quốc gia. Muốn giải quyết một cách có hiệu quả về những vấn đề liên quan đến việc làm, điều đầu tiên là các quốc gia phải đưa ra khái niệm về việc làm, cũng như phải phân biệt rõ khái niệm việc làm với khái niệm lao động. Hai khái niệm này mặc dù luôn đi đôi với nhau và giữa chúng
có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng chúng không hề đồng nhất với nhau.
Lao động là hoạt động của con người diễn ra giữa con người với tự nhiên. Như C.Mác đã nói: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại" [28, tr. 193].
Ngày nay, khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất, tinh thần cho bản thân và cho xã hội.
Bất cứ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất. Điều này có nghĩa là không thể thiếu lao động, lao động là nguồn gốc và động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy, xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động sẽ càng tiến bộ.
Khái niệm về việc làm chỉ xuất hiện khi lao động đã trở thành một nhu cầu sáng tạo, một lối sống văn hóa của con người, và việc làm lúc này không chỉ là vấn đề kiếm sống mà còn là điều kiện để hoàn thiện và phát triển nhân cách của con người.
Trên thế giới, khái niệm việc làm chủ yếu được nêu trong các ấn phẩm, các công trình nghiên cứu của cá nhân hoặc nhóm các cá nhân.
Theo Giăng Mute, cố vấn của Văn phòng ILO (Giơ-ne-vơ): "Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có trả công bằng tiền hoặc hiện vật do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất".
Còn theo Guy Hân-tơ, chuyên viên Viện phát triển hải ngoại Luân Đôn: "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa
là tất cả những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế".
Để hiểu rõ và sâu hơn khái niệm lao động, việc làm với tư cách là đối tượng của các vấn đề liên quan đến lao động, việc làm thì chúng ta không chỉ dừng lại ở các khái niệm chung về lao động, việc làm như trên, mà còn phải tìm hiểu các khái niệm liên quan như: Lực lượng lao động; người có việc làm; thất nghiệp.
Để làm rõ hệ thống khái niệm khái niệm trên, ILO đã đưa ra quan niệm về lực lượng lao động và mô tả nó bằng sơ đồ có tính chất chung nhất như sau:
Cơ cấu về lực lượng lao động [37, tr. 39]
Dân số trong độ tuổi lao động quy định (A)
N
U
N
E: Người có việc làm U: Người thất nghiệp
N: Người không tham gia hoạt động kinh tế
Có việc làm (B)
- Chủ động tìm việc
- Sẵn sàng tìm việc
Lực lượng lao động
Không có việc làm
(C)
Muốn làm việc
Không muốn làm việc
Không chủ động tìm việc
Không thuộc lực lượng lao động
E
Theo sơ đồ trên, ILO đã đưa ra một số khái niệm sau:
- Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định (tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị của từng nước) thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm.
Về cơ bản khái niệm lực lượng lao động nêu trên được thống nhất ở nhiều nước và cũng là khái niệm chính thức mà ILO đưa ra. Điều khác nhau ở mỗi nước chủ yếu là độ tuổi quy định, ở đây có hai sự khác biệt. Khác biệt thứ nhất là quy định giới hạn độ tuổi tối thiểu. Ví như Ai Cập độ tuổi tối thiểu là
6 tuổi; Braxin là 10 tuổi, Ôxtrâylia là 15 tuổi, ở Mỹ là 16 tuổi, phần lớn các nước quy định độ tuổi này là từ 14 hoặc 15 tuổi. Khác biệt thứ hai là quy định giới hạn về độ tuổi tối đa của lực lượng lao động. Ở một vài nước công nghiệp như: Đan Mạch, Thụy Sỹ, Na Uy, Phần Lan lấy tuổi tối đa là 74. Còn một số nước đang phát triển như Ai Cập, Malaysia, Mêhicô quy định là 65 tuổi. Song hiện nay ở nhiều quốc gia và ngay cả ILO đã không quy định giới hạn tuổi tối đa và để mở ở độ tuổi này [37].
- Người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Khái niệm việc làm trên được chính thức nêu ra tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của các nhà thống kê lao động ILO năm 1983 và được áp dụng ở nhiều nước.
- Người thiếu việc làm là người trong độ tuổi lao động đang có việc làm nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định và người lao động đó có nhu cầu làm thêm. Ngược với khái niệm người thiếu việc làm, khái
niệm người đủ việc làm là người làm việc với thời gian không ít hơn mức chuẩn hoặc ít hơn mức chuẩn nhưng không có nhu cầu làm thêm.
- Về khái niệm thất nghiệp, ILO đưa ra định nghĩa: "Thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không có việc làm, đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc".
Để xác định rõ những người thất nghiệp, ILO đã đưa ra những tiêu chí xét trong khoảng thời gian nhất định; những người thất nghiệp là những người sau:
+ Không có việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Tích cực tìm việc làm.
Thất nghiệp dài hạn được hiểu từ 12 tháng/năm; thất nghiệp ngắn hạn là dưới 12 tháng/năm.
Việc xác định thống nhất nhận thức về các khái niệm trên của ILO sẽ tạo cơ sở cho việc định ra các chuẩn mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh giá thực trạng lao động, việc làm và thất nghiệp của mỗi quốc gia trên thế giới. Dựa trên cơ sở các khái niệm này mà các quốc gia trên thế giới đã có những cách tiếp cận khác nhau về khái niệm việc làm.
Ở Ấn Độ, họ dựa vào thời gian làm việc bình thường được quy định trong các văn bản pháp luật để làm căn cứ đánh giá xem một người nào đó có việc làm hay không. Họ còn quy định: Những ai không làm việc một giờ nào trong một tuần lễ thì vào thời gian điều tra sẽ bị liệt vào loại thất nghiệp; những ai làm việc ít hơn số giờ quy định thì được coi là thiếu việc làm. Ở Chi Lê, họ dựa vào tiêu chí thu nhập để định nghĩa về việc làm. Cụ thể: nếu trong thời gian điều tra mà đối tượng hoàn toàn không có một khoản thu nhập nào thì được coi là không có việc làm, nếu thu nhập thấp hơn tiền lương tối thiểu của xã hội thì được coi là thiếu việc làm. Trung Quốc lại đưa ra định nghĩa về