Vai Trò Đối Với Quản Lý Nhà Nước Về Thị Trường Lao Động

Mô hình các trung tâm xúc tiến việc làm phát triển hết sức đa dạng về mặt hình thức và được thành lập ở nhiều địa phương, có trung tâm do Nhà nước quản lý (Sở LĐTB&XH, các UBND tỉnh, thành phố, huyện, quận); một số trung tâm lại do các tổ chức xã hội quản lý như Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ, Công đoàn; một số trung tâm lại được thành lập trong một số ngành đặc biệt như: Bộ quốc phòng để dạy nghề và giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ. Đặc biệt Bộ Nội vụ thành lập mô hình trung tâm giáo dục, chữa bệnh, dạy nghề, tạo việc làm và tái hòa nhập cộng đồng.

Trong quá trình hoạt động, để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, các trung tâm này đã hoạt động theo cơ chế có thu và tiến tới tự trang trải nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của xã hội.

Giai đoạn từ 1994 đến nay

Nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết về cơ chế và môi trường pháp lý cho các trung tâm phát triển, hoạt động ổn định và đóng vai trò cầu nối trong thị trường lao động. Nhà nước đã từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa các văn bản pháp luật. Cụ thể là sự ra đời của BLLĐ năm 1994, Bộ luật này được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1995.

BLLĐ 1994 đã đánh dấu một mốc quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động nói chung và các quy định về tổ chức GTVL nói riêng. BLLĐ 1994 ra đời đã tạo nên tâm lý ổn định, yên tâm và là cơ sở pháp lý quan trọng cho các "Tổ chức Xúc tiến việc làm" trong việc duy trì tổ chức và hoạt động của mình.

Pháp luật quy định: "Tổ chức dịch vụ việc làm được thành lập theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu và giúp tuyển lao động, thu thập và cung ứng thông tin về thị trường lao động" và "Tổ chức dịch vụ việc làm được thu lệ phí, được Nhà nước xét miễn giảm thuế và được tổ chức dạy nghề…" [10].

Để hướng dẫn và cụ thể hóa BLLĐ 1994, ngày31/10/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/CP - Quy định về chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về việc làm.

Theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 72/CP thì các tổ chức dịch vụ việc làm theo khoản 1 Điều 18 và Điều 156 BLLĐ được gọi tên thống nhất là "Trung tâm dịch vụ việc làm", kèm theo tên địa phương hoặc tổ chức.

Theo quy định của pháp luật lao động: "Trung tâm dịch vụ việc làm là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc lĩnh vực hoạt động xã hội, do Nhà nước hoặc đoàn thể, hội quần chúng thành lập" [14]. Nghị định số 90/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ quy định: "Các trung tâm dịch vụ việc làm được tổ chức dạy nghề".

Để hướng dẫn việc tổ chức thực hiện các điều, khoản về tổ chức và hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm theo Nghị định 72/CP ngày 31/10/1995 của Chính phủ, ngày 10/3/1997 Bộ LĐTB&XH đã ban hành Thông tư 08/LĐTBXH-TT- hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm theo Nghị định 72/CP ngày 31/10/1995 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về việc làm, trong đó chỉ rõ các trung tâm dịch vụ việc làm có các nhiệm vụ sau: Tư vấn cho người lao động và người sử dụng lao động; GTVL và học nghề; Tổ chức cung ứng lao động; Thông tin thị trường lao động [21].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

Đồng thời các trung tâm dịch vụ việc làm cũng được trao các quyền như: Được tổ chức dạy nghề gắn với việc làm; Được tổ chức sản xuất, dịch vụ để tận dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật; Được thu phí, học phí theo quy định của pháp luật.

Ngoài những văn bản pháp lý kể trên, trong giai đoạn này còn có một số văn bản quy định các lĩnh vực khác của trung tâm dịch vụ việc làm như; Thông tư 40/BTC năm 1997 quy định về vấn đề quản lý tài chính đối với các trung tâm dịch vụ việc làm; Công văn số 1986/98 về việc giám sát thành lập

Tổ chức giới thiệu việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay - 6

trung tâm dịch vụ việc làm. Những năm đầu sau khi thành lập, các trung tâm này chủ yếu tập trung vào các hoạt động dạy nghề, giới thiệu và tư vấn việc làm.

Do yêu cầu bức xúc của cuộc sống, đặc biệt là vấn đề việc làm của người lao động và sự tồn tại, phát triển của trung tâm, các trung tâm dịch vụ việc làm đã từng bước được mở rộng nội dung, lĩnh vực, phạm vi hoạt động. Theo báo cáo của Ban quản lý Chương trình Quốc gia xúc tiến việc làm, năm 1997, trên phạm vi cả nước, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm đã đạt được những kết quả sau: Tư vấn cho 296.000 lượt người; Dạy nghề cho 143.600 người trong đó 60% có việc làm sau khi học nghề; 12% thuộc diện chính sách; GTVL và cung ứng lao động cho 159.200 người, trong đó có 51% thuộc diện chính sách; Hướng dẫn nông dân cách làm ăn cho 216.000 người [54, tr. 4].

Những kết quả trên đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của các trung tâm dịch vụ việc làm trong thị trường lao động. Tuy nhiên, để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, cũng như đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội trong lĩnh vực việc làm, năm 2002 khi thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ do Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 2/4/2002, có hiệu lực từ ngày 1/1/2003. Quốc hội tiếp tục khẳng định và bổ sung thêm nhiệm vụ cho các trung tâm dịch vụ việc làm.

Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2002 (nay gọi là BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung) quy định: "Tổ chức giới thiệu việc làm có nhiệm vụ tư vấn, GTVL làm cho người lao động; cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; thu thập, cung ứng thông tin thị trường lao động và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức giới thiệu việc làm "và tổ chức GTVL được thu phí, được Nhà nước xét miễn giảm thuế và được tổ chức dạy nghề… Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức giới thiệu việc làm" [13].

Theo quy định trên thì "Trung tâm dịch vụ việc làm" đã được đổi tên thành "Tổ chức giới thiệu việc làm". Nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức GTVL thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, cũng như từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực này, ngày 28/2/2005, lần đầu tiên Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2005/NĐ-CP, ngày 28/02/2005 của Chính phủ quy định về điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức GTVL. Nghị định 19/2005/NĐ-CP thay thế cho Nghị định số 72/CP ngày 31/10/199, (những điều kiện, thủ tục thành lập tổ chức GTVL sẽ được đề cập cụ thể tại chương 2 của luận văn).

Nhằm cụ thể hóa một số điều của BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung và Nghị định 19/2005/NĐ-CP, ngày 22/6/2005, Bộ LĐTB&XH đã ban hành Thông tư số 20/2005/TT-LĐTBXH hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 19/2005/NĐ-CP ngày 28/2/2005 (Thông tư này thay thế cho Thông tư 08/LĐTBXH).

Nghị định 19 quy định: Tổ chức GTVL theo quy định tại Điều 18 của BLLĐ sửa đổi, bổ sung bao gồm có trung tâm GTVL và doanh nghiệp hoạt động GTVL.

Ngoài ra, Nghị định còn quy định rõ: Tổ chức GTVL là tổ chức thuộc lĩnh vực hoạt động xã hội, có tư cách pháp nhân, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước với nhiệm vụ chính là tư vấn, GTVL, cung ứng và tuyển lao động, thu thập và cung cấp thông tin thị trường lao động và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Nghị định cũng quy định quyền hạn và trách nhiệm của các trung tâm cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với tổ chức GTVL.

Như vậy, với việc ngày càng hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ cho các tổ chức GTVL, thì hoạt động của các tổ chức GTVL cũng ngày càng đóng góp tích cực vào công tác giải quyết việc làm cho người lao động. Trong cả giai đoạn từ năm 1990 - 2005, các trung tâm GTVL đã tư vấn cho trên 3 triệu lượt người; GTVL và cung ứng lao động cho khoảng 2,5 triệu lao động; cung

ứng thông tin thị trường lao động khoảng 1 triệu lượt cho các đối tượng có nhu cầu đào tạo nghề ngắn hạn gắn với tạo việc làm cho khoảng 1,8 triệu lao động [38].

Theo số liệu thống kê của Bộ LĐTB&XH, tính đến nay cả nước có khoảng 180 trung tâm GTVL được thành lập và hoạt động theo Nghị định 72/CP ngày 31/10/1995 của Chính phủ và Nghị định 19/2005/NĐ-CP, khoảng 3000 doanh nghiệp hoạt động GTVL và có nhiều tổ chức cung ứng lao động. Cả nước tổ chức khoảng trên 90 hội chợ việc làm ở cấp tỉnh và hàng trăm hội chợ việc làm ở các trung tâm GTVL, các trường, các doanh nghiệp [59]. Điều này chứng tỏ trong những năm qua số lượng và chất lượng hoạt động của các tổ chức GTVL đã tăng lên rõ dệt. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu thực tiễn của thị trường lao động thì mức độ đáp ứng của các tổ chức GTVL vẫn còn nhiều hạn chế về tổ chức hệ thống, về cán bộ, cơ sở vật chất, kỹ thuật….(những vấn đề này sẽ nghiên cứu ở chương 2).


1.3. VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC GIỚI THIỆU VIỆC LÀM


Tổ chức GTVL thực hiện nhiệm vụ là cầu nối trung gian giữa người lao động và người sử dụng lao động, trực tiếp bố trí người tìm việc vào các công việc hiện có; thiết lập hoặc tăng cường các chương trình thu thập, phân tích, lưu giữ, cung cấp thông tin và tư vấn về các cơ hội việc làm, nghề nghiệp, đào tạo, tự tạo việc làm. Vì thế, vai trò của tổ chức GTVL được thể hiện dưới các khía cạnh sau đây.

1.3.1. Vai trò đối với người lao động

Tổ chức GTVL thực hiện một trong những nhiệm vụ của nó là cầu nối trung gian giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Đối với người lao động, tổ chức GTVL với chức năng trung gian giúp cho người lao động có việc làm, cung cấp cho người lao động những thông tin về yêu cầu của người sử dụng lao động, về lĩnh vực cần tuyển lao động, những đòi hỏi về trình độ chuyên môn - kỹ thuật, cũng như mức tiền công,

tiền lương có thể nhận được. Với mong muốn có việc làm thích hợp và có thu nhập cao, phải có thông tin về thị trường lao động, người lao động phải cố gắng để đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của người sử dụng lao động. Trên cơ sở đó, tổ chức GTVL giúp người lao động nhanh chóng tìm được việc làm và được làm việc đúng ngành nghề, chuyên môn, phát huy được khả năng, sở trường của mình. Như vậy, tổ chức GTVL đã góp phần nâng cao chất lượng lao động trong xã hội, giúp cho việc giải quyết việc làm đạt hiệu quả cao hơn.

Ngoài ra, để thực hiện tốt chức năng của mình, tổ chức GTVL còn tham gia đào tạo nghề cho người lao động nhằm đảm bảo việc làm cho họ. Tổ chức GTVL đã góp phần đảm bảo sự bình đẳng trong mối quan hệ giữa người lao động với người sử dụng lao động, cũng như giữa những người lao động với nhau.

Trong mối quan hệ giữa người lao động với người sử dụng lao động, cùng với những thông tin mà tổ chức GTVL đem lại, và được sự tư vấn của các cán bộ của tổ chức GTVL, người lao động sẽ nắm được những thông tin về giá cả sức lao động, về quyền và nghĩa vụ của mình đối với người sử dụng lao động, trên cơ sở đó, người lao động có thể tự bảo vệ mình, tránh bị người sử dụng lao động và điều này cũng bảo đảm cho người lao động được bình đẳng với người sử dụng lao động.

Trong quan hệ giữa những người lao động với nhau, tổ chức GTVL góp phần bảo đảm sự bình đẳng giữa lao động nữ với lao động nam; giữa lao động nông thôn với lao động thành thị, giữa những đối tượng lao động đặc thù như lao động là những người tàn tật, lao động chưa thành niên, lao động xuất ngũ, lao động sau cai nghiện và lao động sau khi mãn hạn tù...

Việc tạo điều kiện cho những lao động đặc thù trên là một hoạt động hết sức quan trọng của tổ chức GTVL nhằm góp phần thực hiện các chính sách xã hội. Bởi, những lao động đặc thù thường rất khó khăn trong việc tìm

kiếm việc làm, nếu có may mắn tìm được một công việc nào đó thì họ cũng dễ rơi vào tình trạng bị người sử dụng lao động đối xử bất công.

Với chức năng trung gian giúp cho người lao động có việc làm, người sử dụng lao động thuê được nhân công theo yêu cầu đặt ra. Tổ chức GTVL dẫn dắt, chắp nối thông tin cung - cầu về lao động nhanh hơn, dễ dàng hơn, góp phần làm cho thị trường lao động vận hành tốt hơn.

1.3.2. Vai trò đối với người sử dụng lao động

Theo quy định của pháp luật lao động: "Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh …" [13].

Tuy nhiên để có thể lựa chọn được những người lao động đáp ứng yêu cầu của mình là một vấn đề không dễ. Lực lượng lao động trong xã hội thì rất đông, nhưng nếu không có những thông tin về họ thì người sử dụng lao động khó mà nhanh chóng tìm được những lao động mà họ đang cần. Muốn giải quyết được vấn đề này, người sử dụng lao động cũng cần phải nắm bắt những thông tin về người lao động, về trình độ, chuyên môn, tay nghề và khả năng làm việc của họ, về xu hướng phát triển của thị trường lao động.

Để đáp ứng những yêu cầu nói trên của người sử dụng lao động, tổ chức GTVL với chức năng của mình giúp cho người sử dụng lao động nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu về lao động, giúp họ dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm lao động, thông qua đó làm tăng hiệu quả sản xuất - kinh doanh cho người sử dụng lao động.

1.3.3. Vai trò đối với quản lý nhà nước về thị trường lao động

Tổ chức GTVL ở nước ta với mục đích thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia về việc làm. Với những hoạt động của mình, tổ chức GTVL đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết việc làm, tìm kiếm việc làm cho người lao động, giảm nhu cầu bức bách của xã hội về việc làm, giảm tỷ lệ thất

nghiệp, thông qua đó làm cho tình hình xã hội ngày càng ổn định, xã hội phát triển lành mạnh hơn.

Tổ chức GTVL giúp cho việc nắm bắt và xử lý thông tin thị trường lao động nhanh chóng, kịp thời ở từng vùng, liên vùng và trong toàn quốc; dẫn dắt chắp nối thông tin cung - cầu về lao động nhanh hơn, dễ dàng hơn, góp phần làm cho thị trường lao động hoàn thiện, phát triển và vận hành ngày một tốt hơn.

Tổ chức GTVL tác động để nâng cao chất lượng "cung về lao động". Chất lượng cung về lao động tăng sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, đòi hỏi về trình độ chuyên môn - kỹ thuật đối với người sử dụng lao động cũng tăng lên. Điều này thúc đẩy việc tiếp tục nâng cao chất lượng cung về lao động, đồng thời cũng cho thấy sự thỏa mãn "cầu về lao động" cũng phải tăng lên. Bên cạnh đó, tổ chức GTVL với các chính sách giới thiệu xuất khẩu lao động, tìm kiếm các thông tin từ thị trường lao động nước ngoài sẽ là cho mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng chặt chẽ và sâu sắc hơn trong lĩnh vực lao động.

Như vậy, với vai trò của mình tổ chức GTVL giúp cho người lao động có việc làm, tháo gỡ khó khăn trong trong định hướng tìm việc làm và ổn định thu nhập, giúp cho người sử dụng lao động tìm được lao động phù hợp với yêu cầu đặt ra, thông qua đó tăng hiệu quả sản xuất - kinh doanh, góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao mức sống dân cư, làm cho nền kinh tế thị trường năng động hơn, làm tăng GDP, GNP, giảm sức ép về việc làm và thất nghiệp, tạo điều điều kiện cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được thực hiện tốt hơn, thông qua đó làm tăng vị thế của đất nước đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ
Ngày đăng: 11/10/2024