Thực Tiễn Phát Triển Du Lịch Vùng Trung Du Và Miền Núi Phía Bắc

h) Thời gian rỗi

Du lịch trong nước và quốc tế


không thể


phát triển được nếu con

người thiếu thời gian rỗi. Nó thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động du lịch. Thời gian rỗi là thời gian cần thiết

để con ngưuời nâng cao học vấn, phát triển trí tuệ, hoàn thành các chức

năng xã hội, tiếp xúc với bạn bè và vui chơi giải trí.

1.1.3.4. Cơ sở hạ tầng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.


Cơ sở

Tìm hiểu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch tỉnh Hà Giang - 4

hạ tầng là tiền đề

cần thiết cho sự

phát triển của bất cứ

ngành kinh tế nào, du lịch cũng không ngoại lệ bởi nó cần phải có các nền tảng thuận lợi để phục vụ du khách, bao gồm:

- Hệ thống giao thông vận tải

- Hệ thống thông tin liên lạc

- Hệ thống điện và cấp thoát nước

1.1.4. Các hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch


Hệ thống phân vị

trong phân vùng du lịch được sử

dụng rất khác

nhau giữa các nước. Đối với nước ta, trong Báo cáo Quy hoạch tổng thể Du lịch Việt Nam đến năm 2010, các nhà khoa học đã đưa ra 5 cấp phân vị trên quy mô lãnh thổ quốc gia bao gồm: điểm du lịch - trung tâm du lịch - tiểu vùng du lịch - á vùng du lịch - vùng du lịch. Điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005) còn đưa thêm khu du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch trong thực tế ở quy mô nhỏ hơn như cấp tỉnh. Trong khuôn khổ đề tài có đề cập đến một số hình thức chính sau:

1.1.4.1. Điểm du lịch

“Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Điểm du lịch

có thể phân thành hai loại: điểm tài nguyên và điểm chức năng. Điểm du

lịch quốc gia phải đủ các điều kiện sau: có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và

dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 100 nghìn lượt khách tham quan một năm. Điểm du lịch địa phương phải đủ các điều kiện: có tài nguyên du lịch

hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 10 nghìn lượt khách tham quan một năm.

1.1.4.2. Tuyến du lịch

“Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở liên kết dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Như vậy, để phát triển các tuyến du lịch thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống giao thông và xây dựng các điểm nhấn là các điểm du lịch có sức thu hút. Tuyến du lịch về mặt không gian lãnh thổ có thể chia làm nhiều loại như: tuyến

du lịch quốc gia nối các điểm, các khu du lịch có ý nghĩa quốc gia, với các

cửa khẩu quốc tế; tuyến du lịch nội vùng; tuyến du lịch liên vùng; các tuyến du lịch địa phương, nội tỉnh…

1.1.4.3. Khu du lịch


“Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài

nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường”. (Luật Du lịch Việt Nam, 2005) Hiện nay, ở nước ta phổ biến các khu du lịch được xây dựng trên nền tảng các cảnh quan tự nhiên hấp dẫn, các di tích hoặc cụm di tích văn hóa – lịch sử, nơi có các danh lam thắng cảnh… và xây dựng thêm các công trình nhân tạo khác để phục vụ nhu cầu ăn, nghỉ và vui chơi của du khách.

1.1.4.4. Trung tâm du lịch

Đây là một cấp hết sức quan trọng. Đặc trưng của trung tâm du lịch là nguồn tài nguyên du lịch tương đối tập trung và được khai thác một cách

cao độ. Trung tâm du lịch có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật tương đối đầy đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để đón, phục vụ và lưu khách lại trong một thời gian dài. Trung tâm du lịch có quy mô nhất định về mặt diện tích, có thể tương đương với lãnh thổ cấp tỉnh hay một thành phố trực thuộc tỉnh. Có hai loại trung tâm du lịch, đó là trung tâm có ý nghĩa quốc gia (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng) và trung tâm có ý nghĩa địa phương (như Cần Thơ…).

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Thực tiễn phát triển du lịch ở Việt Nam

Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á, nơi đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nói chung và du lịch nói riêng. Vì thế nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch. Bên cạnh vị trí thuận lợi, nước ta còn có sự đa dạng về nguồn tài nguyên. Bao gồm cả tài nguyên về tự nhiên như bãi biển, hang động, sinh vật hay nhiều cảnh quan thiên nhiên độc đáo điển hình…; tài nguyên nhân văn có các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, phong tục tập quán, các làng nghề thủ công truyền thống, sự đa dạng về bản sắc văn hóa của các dân tộc… Đây là điều kiện để nước ta phát triển nhiều loại hình du lịch với nhiều sản phẩm khác nhau, trong thời gian dài ngắn khác nhau. Ngành du lịch nước ta chỉ thực sự chuyển biến mạnh mẽ và

trở thành một ngành kinh tế khi đất nước tiến hành đổi mới, đặc biệt từ

những năm 90 của thế kỷ XX. Đảng và Nhà nước đã khẳng định “Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” và coi “Phát triển du lịch là

một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã

hội góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu từng bước đưa nước ta thành trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực” (Chỉ thị số 46 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam).

Sự phát triển của du lịch gắn bó mật thiết với dòng khách du lịch.

Trước hết là dòng khách quốc tế đến nước ta ngày càng tăng. Cuối năm 1994, lần đầu tiên nước ta đón người khách quốc tế thứ 1 triệu, mở đầu cho sự gia tăng mạnh. Nếu năm 2000, lượng khách quốc tế đến Việt Nam mới đạt 2,1 triệu lượt khách thì đến năm 2010, con số này đã tăng hơn 2 lần, đạt 5,05 triệu lượt khách. So với các nước Đông Nam Á, Việt Nam đứng hàng thứ 6 về số khách du lịch quốc tế đến (sau Thái Lan, Malaixia, Singapo, Indonexia, Philippin). Qua một số cuộc khảo sát đã đưa ra 5 lý do để khách lựa chọn đến Việt Nam, đó là: giá cả hàng hóa và dịch vụ thấp (49%), phong cảnh thiên nhiên (44%), văn hóa Việt Nam (41%), du lịch mạo hiểm (38%) và con người thân thiện. Đây là điều đáng mừng với du lịch nước ta, nhưng cũng là điều rất đáng lo ngại vì phần lớn khách du lịch quốc tế đến nước ra chỉ một lần, 85% không muốn quay trở lại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này như thiếu hụt cơ sở vui chơi giải trí, trình độ của lao động du lịch còn thấp… Vì thế, ngành cần có những giải pháp để khắc phục những nhược điểm trên. Trong cơ cấu nguồn khách thì khách nội địa luôn chiếm vị trí áp đảo. Do mức sống của một bộ phận dân cư được cải thiện nhờ thích ứng với cơ chế thị trường. Nên sau những ngày

lao động căng thẳng, họ

cần nghỉ

ngơi, du lịch để

phục hồi sức khỏe.

Chính vì thế số khách du lịch nội địa ở nước ta tăng liên tục, từ 11,2 triệu lượt khách năm 2000 lên 28 triệu lượt khách vào năm 2010.

Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà còn gián tiếp đối với những ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương. Doanh thu du lịch tăng trưởng nhanh và liên tục qua các năm. Nếu năm 2000, doanh thu mới đạt hơn 17 nghìn tỷ đồng, thì đến năm 2010 đã đạt khoảng 96 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 5 lần. Số lượng cơ sở lưu trú cũng tăng cả về chất lượng và số lượng. Năm 2010, ngành du lịch Việt Nam có khoảng 11.000 cơ sở lưu trú

với hơn 200 nghìn buồng. Phương tiện vận chuyển khách du lịch phát triển đa dạng cả đường ô tô, đường sắt, đường hàng không, đường thủy và dần được hiện đại hóa. Một số khu nghỉ dưỡng, sân golf, công viên chuyên đề và cơ sở giải trí được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu của du khách và nhân dân.

Toàn ngành đã chú trọng xây dựng phát triển nhiều loại hình du lịch, các tuyến du lịch mới cả đường bộ, đường sông, đường biển, nối các điểm du lịch, khu du lịch ở miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng ven biển và hải đảo. Hình thành các loại hình du lịch mới, đặc thù… Chú trọng khai thác giá trị nhân văn giàu bản sắc dân tộc, tổ chức các cuộc thi để nâng cao chất lượng sản phẩm.

1.2.2. Thực tiễn phát triển du lịch vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là nơi hội tụ đầy đủ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc, mang đậm các đặc trưng cơ bản về đất nước và con người Việt Nam. Nhiều điểm du lịch nổi tiếng như Đền Hùng, Điện Biên, Sa Pa, Ba Bể, Bản Giốc, cao nguyên dá Đồng Văn….đã và đang là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có những nét riêng biệt không hề có ở các vùng lãnh thổ khác trên đất nước ta.

Vùng này bao gồm nhiều dãy núi trùng điệp, hùng vĩ như dãy núi

Hoàng Liên Sơn được mệnh danh là "mái nhà của Đông Dương", với đỉnh cao nhất là Phanxipang 3.142m và hàng chục đỉnh núi khác có độ cao trên dưới 3.000m. Những dãy núi nơi đây có đặc điểm bị chia cắt rất mạnh và có tính phân bậc, vì thế tạo nên nhiều cảnh quan đẹp và di tích tự nhiên bao gồm các thác nước, những thung lũng mở rộng và vực thẳm. Ngoài Sa Pa là thị trấn du lịch nổi tiếng nằm ở độ cao 1.500m thuộc tỉnh Lào Cai, các địa danh khác như cao nguyên Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà

Giang), Bắc Hà (Lào Cai), Mộc Châu (Sơn La)...được ví như bức tranh

tuyệt tác vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng, có đầy đủ mọi điều

kiện tự nhiên thuận lợi để xây dựng các khu du lịch miền núi.

Bên cạnh đó, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ còn có những rừng cọ, đồi chè, vườn cây ăn quả, những đỉnh đồi lượn sóng theo thung lũng và cánh đồng ngát xanh men theo các dòng sông đỏ nặng phù sa, tạo nên một cảnh sắc thân thuộc gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc Việt Nam. Bằng vẻ hùng vĩ cộng với không gian khoáng đạt, cảnh vật tĩnh mịch, êm đềm và môi trường trong lành, vùng này đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ và cảm xúc sâu đậm cho mọi du khách.

Mặt khác, nơi đây còn có thêm những hệ thống hang động của địa hình Karst thuộc vùng núi đá vôi. Các nhà khoa học đã phát hiện hơn 20 hang có giá trị khảo cổ thời kỳ đồ đá, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu và Hòa Bình. Ngoài giá trị thiên nhiên, các hang động này còn

có các sự Bằng).

tích hoặc gắn với các sự

kiện lịch sử như Hang Pắc Bó (Cao

Du lịch sinh thái tập trung chủ yếu ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên vốn rất phong phú gồm 49 khu bảo tồn tự nhiên, 5 vườn quốc gia và 20 khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường, với những danh lam thắng cảnh hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, hồ Thác Bà, lòng hồ sông Đà, Thác Bản Giốc, Thác Bạc...Đặc biệt, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ rất có ý nghĩa về lịch sử cội nguồn. Nhiều di tích gắn bó với truyền thuyết và lịch sử dân tộc như Đền Mẫu Âu Cơ, Đền Hùng (Phú Thọ); di tích lịch sử gắn với từng giai đoạn cách mạng như Hang Pắc Bó (Cao Bằng), Cây đa Tân Trào và An

toàn khu

ở Tuyên Quang, Di tích lịch sử

Điện Biên Phủ... đang tạo điều

kiện cho đồng bào các dân tộc trên vùng đất này phát triển mạnh về du lịch để xóa nghèo vươn lên làm giàu bền vững.

Các sản phẩm du lịch, dịch vụ nổi bật của vùng là:

- Du lịch sinh thái: Các vườn, hồ (Hoàng Liên, Ba Bể, Núi Cốc,…), công viên đía chất (cao nguyên đá Đồng Văn);

- Du lịch lịch sử - văn hóa: Đền Hùng, Điện Biên Phủ, ATK, văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc,…

- Du lịch thể thao-mạo hiểm: Leo núi Fanxipan, vượt thác ghềnh trên hệ thống sông Hồng, các tuyến du lịch dã ngoại

Các khu du lịch quốc gia (có vai trò động lực thúc đẩy phát triển du

lịch vùng TDMNBB): Pác Bó, Bản Giốc (Cao Bằng); Ba Bể (Bắc Kạn);

cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang); Điện Biên Phủ- Pá Khoang- Mường Phăng (Điện Biên); Sa Pa (Lào Cai); Thác Bà (Yên Bái); Hồ Hòa Bình (Hòa Bình), Đền Hùng (Phú Thọ); ATK (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn); Định Hóa (Thái Nguyên); Mộc Châu (Sơn La). Hình thành các tuyến du lịch gồm:

- Các tuyến du lịch quốc gia và quốc tế gồm:

+ Lạng Sơn-Hà Nội-các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ (sau đây viết tắt là các tỉnh ĐBBB).

+ Cao Bằng-Bắc Kạn-Thái Nguyên-Hà Nội-các tỉnh ĐBBB.

+ Hà Giang (Đồng Văn) - Tuyên Quang - Phú Thọ - Hà Nội- các tỉnh Đồng bằng sông Hồng.

+ Tây Bắc - Hà Nội - các tỉnh Đồng bằng sông Hồng.

+ Côn Minh (Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

+ Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng-Quảng

Ninh.


- Các tuyến nội vùng gồm:

+ Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên (Điện Biên Phủ) - Lai Châu - Lào

Cai (Sa Pa) -Yên Bái - Hà Giang - Cao Bằng-Lạng Sơn.

+ Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên (Điện Biên Phủ) -Yên Bái (Yên Bình) -Bắc Kạn (Ba Bể) - Lạng Sơn (Đồng Mỏ).

+ Thái Nguyên - Ba Bể - Cao Bằng (Bản Giốc) - Lạng Sơn.

+ Bắc Giang - Lạng Sơn - Cao Bằng - Bắc Kạn - Thái Nguyên - Tuyên Quang - Hà Giang.

+ Sơn La - Điện Biên (Điện Biên Phủ) - Lai Châu - Lào Cai (Sa Pa).

+ Phú Thọ (Việt Trì)-Yên Bái-Lào Cai (Sa Pa).

+ Phú Thọ (Việt Trì)-Sơn La-Điện Biên (Điện Biên Phủ)-Lào Cai (Sa

Pa).

Nhằm tạo ra sự liên kết du lịch giữa các tỉnh trong vùng, các chương

trình phát triển du lịch đã được thực hiện khá bài bản trong những năm gần đây. Chương trình “Qua miền Tây Bắc - Sơn La 2011” được tổ chức tại huyện Mộc Châu từ ngày 27/8-2/9 với sự tham gia của ngành du lịch 8 tỉnh Tây Bắc gồm: Sơn La, Hoà Bình, Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Phú Thọ. Nhiều hoạt động du lịch hấp dẫn sẽ được triển khai trong dịp này như: Khảo sát cung đường du lịch Tây Bắc; tổ chức các tour, điểm du lịch điển hình tại khu du lịch Quốc gia Mộc Châu, Yên Châu, Mường La như các tour hang động, tham quan lòng hồ thuỷ điện lớn nhất Đông Nam Á, tour bản làng…; hội trại văn hoá và hội chợ thương mại với

các gian hàng trưng bày và bán các sản vật địa phương. Lần đầu tiên, tỉnh

Sơn La giới thiệu sản phẩm du lịch sinh thái, cộng đồng và du lịch văn hóa lịch sử, tạo điểm nhấn liên kết vùng miền giữa các tỉnh miền núi Tây Bắc (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu). Để giới thiệu quảng bá loại hình du lịch này một cách rộng rãi, Sơn La đã xây dựng ý tưởng và mời các tỉnh bạn như Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu cùng tham gia liên kết thực hiện chương trình du lịch mang tên “Qua miền Tây Bắc”.

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 11/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí