Biểu Hiện Của Sắc Thái Dục Tính Trong Truyền Kỳ Mạn Lục Của Nguyễn Dữ


nước rối ren, thiết chế chính trị, tư tưởng Nho giáo bị lung lay, rạn vỡ, đời sống tinh thần của con người có những biến động dữ dội. Đây cũng là giai đoạn mà con người phần nào đó có điều kiện tự bộc lộ và khẳng định mình. Nguyễn Đỗ Cung đã có nhận xét “Đó là giai đoạn gian khổ đầy những chiến tranh và vật lộn giữa các họ cầm quyền, giai đoạn phong kiến rối loạn mà các nhà Khổng học không ngừng nhắc đến một cách ngậm ngùi, chua cay, nhưng lại là lúc mở ra những khả năng làm cho nhân dân ít bị ức hiếp hơn, ít bị chà đạp dã man hơn, mà thậm chí còn được tôn trọng hơn chút ít” [5]. Xã hội Việt Nam giai đoạn này đã có dấu hiệu của xã hội thị dân, tư tưởng tự do phóng khoáng trong tình yêu, dục tính đã xuất hiện. Viết Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ ít nhiều đã ảnh hưởng từ hoàn cảnh lịch sử biến động này.

1.3.2. Vài nét về Truyền kỳ mạn lục

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm còn lại duy nhất của Nguyễn Dữ và là tác phẩm truyền kì đặc sắc bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Từ các công trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi thấy hiện đang có nhiều văn bản Truyền kỳ mạn lục. Ngoài bản được khắc in sớm nhất năm 1712 “Cựu biên Truyền kỳ mạn lục” (có bài tựa của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định sơ niên 1547) còn có một số bản chép tay. Các bản này ngoài phần nguyên văn chữ Hán của Nguyễn Dữ còn có phần tăng bổ giải âm tập chú có chú thích điển cố và chữ khó.

Nói đến thời điểm ra đời của Truyền kỳ mạn lục, nhiều tư liệu đã đề cập đến vấn đề này và đều khẳng định Nguyễn Dữ viết tác phẩm vào khoảng những năm đầu thế kỷ XVI vào thời nhà Mạc (1527-1592) trong thời gian cáo quan về ở ẩn. Trong lời tựa của Hà Thiện Hán viết: “… Ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết tập lục này để ngụ ý” [4,tr.69]. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục cho rằng Nguyễn Dữ: "Sau vì nhà Mạc thoán đoạt, thề không đi làm quan, ở nhà dạy học, không đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ mạn lục bốn quyển" [16]. Trần Ích Nguyên trong công trình Tiễn đăng tân thoại dữ Truyền kỳ mạn lục tỷ giảo so sánh [55] cho rằng


nó nằm trong khoảng từ năm 1509 đến năm 1547. Đó là thời kỳ nhà Lê đã suy vong và nhà Mạc cướp ngôi trị vì. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng khẳng định "Nguyễn Dữ làm quan và cáo quan về ởẩn rồi viết Truyền kỳ mạn lục trong khoảng thời gian trước năm 1527, dưới triều Lê" [25].

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được viết theo thể loại tiểu thuyết truyền kỳ. Truyện truyền kỳ có nguồn gốc từ truyện kể dân gian Trung Quốc. Có nhiều ý kiến cho rằng Truyền kỳ mạn lục được sáng tạo lại trên cơ sở của truyện truyền kỳ Trung Quốc, tác phẩm của Cù Hựu có tên “Tiễn đăng tân thoại”, một tác phẩm có sức lan tỏa mạnh nhất, rõ rệt nhất, thúc đẩy sự ra đời các tập truyện truyền kì ở ba nước Đông Á còn lại như Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (1435 - 1493, Triều Tiên), Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (đầu thế kỉ XVI, Việt Nam), Già tỳ tử của Asai Ryohi (1612 - 1691, Nhật Bản). Nói về thời điểm Tiễn đăng tân thoại du nhập vào Việt Nam, Nguyễn Nam…tldd, tr212 đã đưa thông tin trên tập san Trung Quốc văn hóa tập 12, 1995, 2 tác giả Xu Shuofang và Suzuki Yoichi: “đã có phát hiện về mối quan hệ gần gũi giữa Cù Hựu và Trương Phụ (tướng nhà minh có tham giá xâm lược Việt Nam). Căn cứ vào các tài liệu sách báo có thể nghĩ cuốn sách được phổ biến ở nước ta hồi Minh thuộc nằm trong chủ trương văn hóa của nhà Minh. Một mặt họ tịch thu đốt phá tiêu hủy nhiều sách vở, bia đá của người Việt sáng tác nên mặt khác chủ động đưa sách Trung Quốc vào nước ta: [80,tr. 212]. Trong lời tựa của Hà Thiện Hán chỉ rõ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu song mục đích sáng tác của Nguyễn Dữ lại khác: “Thế rồi ông viết sách (Truyền kỳ mạn lục) này để gửi gắm tâm sự. Xem lời văn, thấy không ra ngoài phiên giậu Tông Cát (Cù Tông Cát có soạn cuốn Tiễn đăng tân thoại). Tuy nhiên sách cựu biên nhiều chỗ có nhắc nhở, văn khuyên, tác dụng giáo dục đối với xã hội hẳn không phải là nhỏ” [4,tr. 69].

Hai công trình nghiên cứu so sánh của học giả Đài Loan Trần Ích Nguyên và của Tiến sỹ Nguyên Nam đã tiến hành đối chiếu, so sánh tỉ nữ tất cả các truyện của Tiến đăng tân thoại và của Truyền kỳ mạn lục và nhận thấy: “văn từ của Truyền kỳ mạn lục quả thực có quan hệ trực tiếp với Tiễn đăng tân thoại” (55,tr. 197). Bên


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

cạnh đó, giới nghiên cứu cũng cho rằng Truyền kỳ mạn lục không chỉ ảnh hưởng bởi Tiễn đăng tân thoại mà còn ảnh hưởng của các nguồn văn bản khác. Theo nhà phê bình văn học người Nga, M.Tkachov các nguồn văn bản như sử học, văn học, văn hóa Việt Nam trung đại đã ảnh hưởng đến việc sáng tác Truyền kỳ mạn lục. Ông cho rằng: Việc những nhân vật có thật, những triều thần như Nguyễn Dục và Lương Đắc Bằng vạch mặt vua Lê Uy Mục đã khiến Nguyễn Dữ dựng lên đối thoại giữa các nhân vật hư cấu.Tkachov nhận đinh: “những sự kiện lịch sử trước hết đối với Nguyễn Dữ là có cơ sở để trình bày, đánh giá riêng của mình, những đánh giá không giả dối và nghiêm khắc về con người và sự biến “trong chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang”. Tkachov so sánh tư tưởng Nguyễn Dữ với thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm giống với Từ Thức; từ chất liệu về số phận của nhiều người đương thời, Nguyễn Dữ “truyền đạt được bi kịch ảm đạm của thời đại mình”. Ông viết: “Có lẽ vì Nguyễn Dữ luôn lựa chọn trong quá khứ những sự kiện phù hợp với những tháng ngày khó khan và căng thẳng mà chính ông đã sống”. Tkachov cho rằng: “Nguyễn Dữ không vay mượn đơn giản về chủ đề và hình tượng. Ảnh hưởng của các đề tài Trung Quốc có thể thấy trong chuyện người con gái Nam Xương nhưng không gian câu chuyện và câu chuyện là có thật ở nước ta. Nguyễn Dữ tự hào về truyền thống văn hóa văn học dân tộc. Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa tôn vinh Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông. Sáng tạo của Nguyễn Dữ còn thể hiện ở 19 lời bình cuối truyện – điều không thấy ở các tác phẩm Trung Quốc” [80,tr.370].Trong công trình nghiên cứu của mình Trần Ích Nguyên đã tổng hợp các nguồn văn bản ảnh hưởng đến Truyền kỳ mạn lục: chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại, cải biến từ thần thoại và chí quái Việt Nam, chép lại truyền thuyết dân gian địa phương. Đặc biệt Trần Ích Nguyên cho rằng ngay cả Tiễn đăng tân thoại cũng mô phỏng chí quái truyền kỳ và ghi chép truyền thuyết dân gian địa phương, một quy trình tương tự như sự sáng tạo Truyền kỳ mạn lục. Đến đây chúng ta có thể khẳng định Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm thành công của Nguyễn Dữ, một tác phẩm sáng tạo đích thực dựa trên sự tiếp thu tác phẩm nước ngoài và văn học dân gian [80,tr.376].


Tìm hiều sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục - 6

Nguyễn Dữ đặt tên tác phẩm là Truyền kỳ mạn lục nghĩa là sự ghi chép tản mạn những câu chuyện truyền kỳ nhưng thực sự đó là một tác phẩm văn chương đích thực. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện, các truyện lấy tên là “lục” “kí”. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển. Chia theo thể loại thì trong số 20 truyện có 6 truyện (Khoái châu nghĩa phụ truyện, Lý tướng quân truyện, Lê Nương truyện, Thúy Tiêu truyện); 9 lục (Trà đồng giáng đản lục, Long tiên hôn lục, Tản viên từ phán sự lục, Từ thức tiên hôn lục, Phạm Tử Hư du thiện tào lục, Xưng Giang yêu quái lục, Na Sơn tiều đối lục, Nam Xương nữ tử lục, Dạ xoa bộ soái lục); 5 ký (Hạng Vương từ ký, Tây viên kỳ ngộ ký, Đào thị nghiệp oan ký, Đà Giang dạ ẩm ký, Kim Hoa thi thoái ký). PGS.TS Trần Nho Thìn nhận định: “Nhìn từ góc độ thể loại, việc phân biệt giữa truyện ký lục trong sách này rất ít ý nghĩa. Trong văn học trung đại, tên gọi tác phẩm thường chỉ báo đặc trưng thể loại nhưng đây không phải là quy tắc bất di bất dịch như có một số nhà nghiên cứu khẳng định” [80,tr.373]. Truyện được viết bằng văn xuôi chữ Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa) đều có lời bình của tác giả. Nội dung cơ bản của Truyền kỳ mạn lục là tập trung phản ánh những số phận con người trong xã hội đó. Đằng sau những yếu tố hoang đường kỳ ảo là một bức tranh xã hội hiện lên trong tác phẩm. Đó là một xã hội mà giai cấp thống trị giả dối, tham lam, độc ác, tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Kết cục, tất cả những kẻ độc ác, xấu xa đều bị trừng phạt, phủ nhận, hoặc bị lên án chê cười. Đó là một xã hội mà người phụ nữ là nạn nhân đau khổ nhất của thiết chế xã hội, của quan niệm nho giáo, của hiện thực cuộc sống. Ông không chỉ viết về người phụ nữ như một đối tượng phản ánh đơn thuần mà còn thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến số phận của họ. Ông mong muốn duy trì và bảo vệ trật tự xã hội phong kiến mà ở đó cái ác phải bị trừng trị, cái thiện phải được đề cao. Có thể nói tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn sâu sắc và với tác phẩm này Nguyễn Dữ đã là người mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam thời trung đại.


Về hình thức nghệ thuật, chúng ta có thể khẳng định sự sáng tạo của Nguyễn Dữ về phương diện nghệ thuật truyền kỳ. Nguyễn Dữ là tác giả đầu tiên khẳng định vị trí của thể truyền kỳ trong văn xuôi Việt Nam, đưa vào thể loại này những yếu tố của văn học dân gian tạo ra màu sắc riêng của thể loại truyền kỳ Việt Nam. Nói như giáo sư Bùi Văn Nguyên thì “tất cả hai mươi truyện trong Truyền kỳ mạn lục, nếu được phân tích tỉ mỉ, bộc lộ ít nhiều yếu tố văn học dân gian đúng với bút pháp của thể truyền kỳ” [54 ]. Rõ ràng có một sự kết hợp hài hoà giữa thể loại truyền kỳ – một thể loại ngoại lai với các yếu tố của văn học dân tộc trong ngòi bút của Nguyễn Dữ.

Với nội dung phong phú, mang tính hiện thực cao, với thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, Truyền kỳ mạn lục thực sự trở thành một “thiên cổ kỳ bút” và trở thành cái đích không dễ dàng vượt qua đối với các tác phẩm sau này. Chắc rằng, càng nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục chúng ta sẽ càng phát hiện ra giá trị muôn mặt của nó và cũng từ đó càng hiểu hơn những điều mà Nguyễn Dữ gửi gắm với bao thế hệ hậu sinh. Sau khi Truyền kỳ mạn lục được xuất hiện ở Việt Nam, các tác phẩm mô phỏng theo gồm có Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Truyền văn tân lục của Nguyễn Diễn Trai, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích lần lượt ra đời và chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử tiểu thuyết Hán văn Việt nam và kế thừa loại tiểu thuyết truyền kỳ.

1.4. Tiểu kết

Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày một số vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài như tìm hiểu khái niệm dục tính; quan niệm về dục tính trong văn hóa cổ trung đại phương Đông; dục tính trong văn học thế giới và văn học trung đại Việt Nam; những nét khái quát về tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Theo chúng tôi, dục tính là bản năng sinh lý tự nhiên, là thuộc tính của mọi sinh thể sống, là nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Văn hóa cổ trung đại phương Đông có quan niệm khá khắt khe về dục tính. Tư tưởng Nho giáo đề cao cái tâm và hạ thấp vấn đề thân xác của con người, coi dục tính là một trong những điều “cấm kỵ”. Trong văn học thế giới và văn học Việt Nam vấn đề dục tính đã xuất hiện với mức độ đậm nhạt khác nhau thể hiện quan điểm nhân sinh, cách nhìn nhận


về con người của các tác giả ở mỗi thời đại. Nguyễn Dữ là tác giả sống ở thời kì xã hội Việt Nam có nhiều biến động phức tạp về chính trị, văn hóa. Ông là nhà văn ẩn dật đồng thời ông cũng đã chịu tác động của luồng tư tưởng nhân đạo, tinh thần dân chủ, ý thức cá nhân bắt đầu xuất hiện trong xã hội ở thế kỷ XVI. Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm còn lại duy nhất của Nguyễn Dữ và được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Tác phẩm ra đời đã đánh dấu sự phát triển của văn xuôi tự sự Việt Nam, thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Dữ.


CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SẮC THÁI DỤC TÍNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ

2.1. Dục tính biểu hiện qua đề tài

Mỗi một tác phẩm văn học đều hướng đến những đề tài nhất định và qua đó nhà văn thể hiện những vấn đề của cuộc sống và phản ánh tư tưởng, tình cảm của mình. Nền văn học trung đại chịu ảnh hưởng rõ rệt của tư tưởng Nho giáo. Với quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, văn chương thời kỳ này này hầu hết là nói đến đến ý chí, tư tưởng, đạo lý, những vấn đề lớn lao của đất nước, hướng đến những cái cao cả, phi thường mà không chú ý đến đời sống cá nhân, riêng tư của con người. Đề tài dục tính bị coi là đề tài cấm kị và rất hiếm xuất hiện trong sáng tác thơ văn của các thiền sư và các nhà nho. Nhưng với Nguyễn Dữ, viết Truyền kỳ mạn lục, ông vẫn hướng ngòi bút của mình vào đề tài này.

Đọc Truyền kỳ mạn lục chúng ta không thể phủ nhận Nguyễn Dữ đã dành nhiều trang văn đặc sắc miêu tả những cuộc gặp gỡ, những mối quan hệ tình yêu với sự hiện diện “thoải mái”, dễ dàng và mãnh liệt của yếu tố tình dục xảy ra giữa người và hồn ma, người và tiên, giữa người và người. Theo khảo sát, chúng tôi thấy trong tổng số 20 truyện trong tác phẩm thì có 10 truyện (Chuyện cây gạo; Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây; Chuyện yêu quái ở Xương Giang; Chuyện nghiệp oan của Đào thị; Chuyện nàng Tuý Tiêu; Chuyện Lệ Nương; Chuyện đối tụng ở Long đình; Chuyện Từ Thức gặp tiên; Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu) đề cập đến vấn đề này. Đó cũng là một con số không hề nhỏ.

Chuyện tình giữa người và hồn được Nguyễn Dữ kể thật sinh động. Nhận xét về nhóm tác phẩm này, PGS.TS Đinh Thị Khang viết: “Nhóm tác phẩm viết về Chuyện tình giữa người và hồn ma có một cốt truyện vừa lãng mạn, vừa ly kỳ, quái đản”. So sánh nhóm truyện này với Tiễn đăng tân thoại, nhà nghiên cứu này nhận xét: “Đặt trong so sánh với Tiễn đăng tân thoại, xét số lượng tác phẩm là đối tượng khảo sát, chúng tôi có kết quả sau đây: Tiễn đăng tân thoại có 5/20 truyện, chiếm tỉ lệ 25 %; Truyền kỳ mạn lục có 3% 20 truyện, chiếm tỉ lệ 15%. Tuy rằng số lượng có ít hơn so với Tiễn đăng tân thoại nhưng vẫn có thể thấy, đây là đề tài được Nguyễn


Dữ quan tâm thể hiện. Nội dung mỗi truyện viết về cuộc gặp gỡ yêu đương giữa hai nhân vật chính. Trong cả 8 truyện (5 của Tiễn đăng tân thoại, 3 của Truyền kỳ mạn lục), các nhân vật nam đều là người, các nhân vật nữ đều là hồn ma hiện thành người. Viết về chuyện người gặp gỡ yêu đương với ma; ăn ở vui thú như vợ chồng với ma giữa cõi người, các tác giả đã đưa chuyện ảo, cảnh ảo xâm nhập thế giới người; đưa thế giới “phi hiện thực” hiện hữu trong thế giới hiện thực. Như vậy tính chất kỳ ảo của từng tác phẩm nằm ngay trong nội dung cốt truyện và hình thức “ phi nhân” của một trong hai nhân vật chính” [35]. Ba truyện thuộc nhóm Chuyện tình giữa người và hồn ma trong Truyền kỳ mạn lục mà nhà nghiên cứu nói đến chính là Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Chuyện yêu quái ở Xương Giang.

Đọc Chuyện cây gạo, tác giả đưa ta đến cuộc tình của Trình Trung Ngộ và hồn ma Nhị Khanh. Trình Trung Ngộ là chàng trai đẹp đất Bắc Hà, hồn ma Nhị Khanh biến thành một giai nhân tuyệt sắc, chơi hồ cầm giỏi. Họ gặp nhau và cùng đến với tình ái bằng triết lý đầy tự do về tìm thú vui ái ân ở đời của Nhị Khanh “Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”[11,tr.35-36]. Cuộc tình giữa người và hồn ma cứ thế diễn ra đến hơn một tháng và khi biết Nhị Khanh là hồn ma,Trình Trung Ngộ vẫn không cưỡng lại được tiếng gọi của ái tình. Cuối cùng chàng đã ôm lấy quan tài Nhị Khanh mà chết để được yêu đương tự do hơn.

Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây kể về mối tình hoan lạc giữa chàng thư sinh Hà Nhân với hai hồn hoa Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương. Chàng thư sinh lên kinh sư theo học cụ Ức Trai (Nguyễn Trãi) gặp các cô. Hai nàng trong buổi đầu gặp chàng sinh đã chủ động làm quen với chàng “cười đùa hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném cho Sinh [11,tr.54]. Trước thiện tình của hai cô gái, Sinh không làm ngơ được, đứng lại trò truyện. Hai nàng giới thiệu thân thế của mình, bày tỏ lòng ham muốn: “vốn là tì thiếp của quan thái sư. Từ ngày thái sư qua đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang”[11,tr.54]. Chàng

Ngày đăng: 18/02/2024