Tiến trình vận động của văn học trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX - Từ ý thức nghệ thuật đến thực tiễn sáng tác - 3


Trên cơ sở vận dụng thi pháp học để phân tích trường hợp tác phẩm của một tác giả cụ thể, Nguyễn Huệ Chi qua bài viết “Trường hợp Nguyễn Khuyến – dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc” (in lần đầu trong phần “Dẫn luận” Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ, Nxb. Giáo dục, 1994) đi đến khái quát sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ: “...từ những đổi thay chưa thật tự giác và hệ thống trong hệ tư tưởng, trong quan điểm xã hội, nhân sinh, trực giác thiên tài đã sớm dẫn dắt ông đến những đổi thay trong tư tưởng nghệ thuật, góp phần hình thành nên ở ông những nhận thức vô ngôn về một phương thức tư duy nghệ thuật mới” [31, tr.1066].

Với Hình thức luận, sự tiến triển của văn học được quan niệm như là một quá trình chống lại sự “tự động hóa”. Mỗi hệ thống được hợp thành bởi nhiều thể loại văn học, vận động theo quy luật chuyển các thể loại từ ngoại vi vào trung tâm. Chịu ảnh hưởng từ thi pháp thể loại của M.Bakhtin, Nguyễn Phạm Hùng trong quyển Văn học Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XX) (Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội, 1999) dùng mô hình thể loại để nghiên cứu tiến trình vận động của văn học: “Những sự xuất hiện, biến đổi, phát triển của thể loại văn học, của các phương thức nghệ thuật trong các thời kỳ lịch sử khác nhau chính là biểu hiện sự phát triển của lịch sử văn học” [83, tr.6].

Từ góc độ văn hóa, trong công trình Văn học trung đại Việt Nam: dưới góc nhìn văn hóa (Nxb. Giáo dục, 2013), ông cho rằng “miêu tả lịch sử biến chuyển, vận động của văn học cần dựa vào khung hệ thống khái niệm hình thành trong giai đoạn đầu tiên của chính nền văn học đã được viết chứ không phải là những khái niệm do chúng ta ngày nay nghĩ ra” [213, tr.65]. Tiến trình văn học có tính hệ thống, vì thế phải được xác lập thông qua một hệ thống khái niệm tương ứng. Nhiệm vụ của nhà văn học sử phải là phân tích hệ thống khái niệm đó qua tác phẩm văn học và “theo dõi chúng biến đổi qua thời gian như thế nào, đi tìm những căn cứ lịch sử xã hội để giải thích sự biến đổi ấy” [213, tr.66]. Bộ sách này tập hợp các bài viết có giá trị của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn. Trong bài viết “Trường hợp Nguyễn Du: Văn học trung đại từ chủ nghĩa dân bản đến chủ nghĩa nhân bản (Về ý nghĩa hiện


đại của Nguyễn Du)” (đã in trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12/2005, tr.36-44), ông phân tích sự thay đổi trong ý thức của Nguyễn Du về con người:

“Nhận thức về con người là một vấn đề có tính lịch sử. Nhận thức này đã diễn ra trong văn học trung đại như là một quá trình quan sát con người, lúc đầu từ góc độ con người “thần dân”, như là đối tượng thuần túy của nhà chính trị, cuối cùng đi đến chỗ nhìn nhận con người như là một đối tượng của chủ nghĩa nhân bản, con người “tự nó”, con người nhìn từ bản thể luận. Nguyễn Du là trường hợp điển hình nhất cho chặng cuối, là người đánh dấu sự hoàn thiện của ý thức về con người nhân bản” [213, tr.265].

Trên cơ sở này, tác giả khẳng định “thành công của Nguyễn Du bắt nguồn từ chủ nghĩa nhân bản sâu sắc của ông” [213, tr.274].

Trong bài viết “Trào lưu chủ tình của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và dấu vết ảnh hưởng của sách Thế thuyết tân ngữ” (đã in trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1/2007, tr.78-104), Trần Nho Thìn đã khảo sát, phân tích, biện luận một cách công phu về khái niệm “tình”. Theo tác giả, ở Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX xuất hiện trào lưu chủ tình. Theo ông, “hai đặc điểm về lối sống của danh sĩ phong lưu Ngụy Tấn là lấy rượu để đạt được cảnh giới lưỡng vật ngã vong và sống theo tình, theo cảm hứng chống lại danh giáo, chống lại cái duy lý của Nho học đã ảnh hưởng khá mạnh đến văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, góp phần tạo nên một trào lưu chủ tình đặc sắc” [213, tr.541]. Về trào lưu chủ tình, ông định nghĩa:

“Trào lưu chủ tình” trong văn học thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là một khái niệm chúng tôi sử dụng theo một nghĩa ước lệ, nhằm định danh một xu hướng văn học chiếm vị trí nổi bật nhất, làm nên thành tựu quan trọng nhất của văn học giai đoạn này: trào lưu văn học đề cao tình (emotions), tức thiên về xúc cảm thay vì lí trí tỉnh táo của nhà nho truyền thống” [213, tr.548].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.

Xem “tình” là khái niệm cơ bản của văn học giai đoạn, nhà nghiên cứu xem xét sự tác động của “tình” đến mọi mặt của văn học:


Tiến trình vận động của văn học trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX - Từ ý thức nghệ thuật đến thực tiễn sáng tác - 3

“Các nhà thơ thế kỷ XVIII và XIX trân trọng tình cảm con người trên triết lý căn bản xem con người là giống có tình, là “nòi tình” (tình chủng), “giống hữu tình” chứ không phải là cỏ cây, gỗ đá” [213, tr.543].

“Có thể mô tả trào lưu này từ nhiều góc độ khác nhau. Trên phương diện quan niệm về con người (nhân vật), ta thấy mẫu nhân vật sống chủ tình, “việt danh giáo nhiệm tự nhiên rất rõ nét” [213, tr.548].

“Về phương diện thể loại, những thể loại quan trọng của giai đoạn văn học này như ngâm khúc, truyện thơ, hát nói đều chuyên chở nội dung đề cao tình cảm con người tự nhiên, trần thế” [213, tr.548].

“Về phương diện quan niệm văn học, Lê Quý Đôn viết về vai trò của tình trong thơ (theo ông, thơ có ba yếu tố căn bản: tình, cảnh, sự). Cao Bá Quát nhắc đến “tính linh” (khái niệm của Viên Mai dùng trong Tùy Viên thi thoại) để chỉ về tình cảm chân thật trong thơ” [213, tr.549].

Đi sâu hơn lý luận cổ điển là hướng nghiên cứu ngày càng được chú ý bởi tính cấp thiết của nó. Một loạt bài viết, công trình ra đời. Nguyễn Ngọc Quận viết “Quan niệm của Cao Bá Quát về văn học” (Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, số 6/1999). Nguyễn Đăng Na viết “Hoa Nguyên thi thảo và lời bình của thi hào Nguyễn Du” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3/2005). Nguyễn Thanh Tùng viết “Nhìn lại quan niệm về thơ của học giả Lê Quý Đôn trong Vân Đài loại ngữ” (Tạp chí Khoa học ĐHSP Hà Nội, số 2/2006), “Tìm hiểu quan niệm thi học của Cao Bá Quát” (Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Cán bộ trẻ Trường ĐHSP Hà Nội, 2010), thực hiện thành công luận án tiến sĩ đề tài Sự phát triển tư tưởng Thi học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2010). Nguyễn Đình Phức viết “Về bài Tự tự Tĩnh phố thi tập của Miên Trinh” (Tạp chí Hán Nôm, số 3/2006), “Nguyễn Miên Thẩm dữ thần vận thi học” (Ngoại vực Hán tịch nghiên cứu tập san, Đệ nhất tập, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 2006), “Luận thi thi, một hình thức phê bình trong văn học Việt Nam cần được chú ý khai thác” (Tạp chí Hán Nôm, số 5(96)/2009). Trần Đình Sử viết bài “Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số


11/2008). Phạm Văn Ánh viết bài “Quan niệm từ học của Miên Trinh” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12/2011). Hoàng Ngọc Cương giới thiệu và phân tích bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự qua bài viết “Quận vương Vĩnh Tường:Vị hoàng tử hay thơ qua bài tựa của Quảng Khê Trương Đăng Quế” (Tạp chí Sông Hương, số 331/2016)...

Theo một định hướng khác, tư duy hiện đại và các khái niệm lý luận hiện đại như “tâm lý sáng tạo”, “quy luật sáng tạo nghệ thuật”, “bản chất thẩm mỹ”,v.v. được vận dụng để lý giải về quan niệm văn học trung đại. Năm 1996, Phạm Quang Trung hoàn thành luận án tiến sĩ đề tài Tìm hiểu quan niệm thơ cổ Việt Nam (Trường Đại học Sư phạm T.P. Hồ Chí Minh), sau đó xuất bản những công trình khảo cứu như Văn chương với Lê Quý Đôn (Nxb. Giáo dục, 1994), Thơ trong con mắt người xưa (Nxb. Hội nhà văn, 1999), Quan niệm văn chương cổ Việt Nam từ một góc nhìn (Nxb. Khoa học xã hội, 2011)…

Có thể thấy, ngoài quan niệm văn học nói chung, quan niệm từ học, thi học của nhiều tác giả, nhất là những tác giả để lại sự nghiệp văn chương hoặc sự nghiệp lý luận, phê bình phong phú, có giá trị cao như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Lê Quý Đôn, Miên Thẩm, Miên Trinh,v.v., ngày càng được chú ý. Mỗi công trình nghiên cứu là một mảnh ghép dần hợp thành một bức tranh rộng lớn hơn, làm phát lộ ra sự vận động trong quan niệm văn học ở từng tác giả hoặc từng nhóm tác giả thuộc thế kỷ XVIII – XIX.

Nhìn chung, quan niệm văn học của thế kỷ XVIII – XIX thường được đề cập đến như một bộ phận trong mười thế kỷ văn học trung đại. Tác phẩm Góp phần xác lập hệ thống quan niệm của văn học trung đại Việt Nam (Nxb Giáo dục, 1997) của Phương Lựu là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các quan niệm từng xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam. Quan niệm văn học, theo lý giải của nhà nghiên cứu, “là hoạt động văn học bước đầu được ý thức một cách tổng quát trên bình diện lý thuyết” [125, tr.88]. Các quan niệm văn học được ông trình bày theo hai hệ thống như sau:

Phần 1: Hệ thống những quan niệm văn học cơ bản


- Quan niệm văn học yêu nước và tự hào dân tộc

- Quan niệm văn học truyền thụ đạo lý phong kiến (trong thời hưng thịnh và trong giai đoạn trung suy)

- Quan niệm “Văn dĩ tải đạo” của vua quan triều Nguyễn

- Quan niệm văn học hiện thực và nhân dân trong thời phong kiến suy thoái Phần 2: Hệ thống quan niệm về các chỉnh thể chủ yếu của văn học:

- Về nhà văn

- Về tác phẩm văn học

- Về thể loại thơ ca

Công trình không đặt ra vấn đề phân kỳ giai đoạn văn học. Quan niệm văn học yêu nước và tự hào dân tộc tồn tại xuyên suốt lịch sử trung đại. Quan niệm văn học truyền thụ đạo lý phong kiến “giữ vai trò tiến bộ từ thế kỷ X đến thế kỷ XV” (thời hưng thịnh) [125, tr.107] và trở nên tiêu cực vào giai đoạn trung suy (đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII). Vua quan triều Nguyễn thì “hoàn toàn rập khuôn theo công thức “Văn dĩ tải đạo” của Tống Nho” [125, tr.141]. Quan niệm văn học hiện thực và nhân dân hình thành rõ nét từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, “đối trọng lại với quan niệm văn học phong kiến chính thống đương thời” [125, tr.182]. Cấu trúc trên, như chính tác giả lý giải, tương ứng với hai phần của “khoa lý luận văn học ngày nay”, phần một ứng với phần Nguyên lý tổng quát và phần hai là các chỉnh thể của văn học như Nhà văn, Tác phẩm, Thể loại [125, tr.79]. Do đó, công trình của Phương Lựu giúp người đọc có được cái nhìn khái quát về những vấn đề chung của văn học trung đại hơn là sự vận động của từng giai đoạn. Ngoài ra, với văn học thế kỷ XVIII – XIX, quan niệm “Văn dĩ tải đạo” và quan niệm văn học hiện thực và nhân dân mà tác giả phân tích nghiêng về hướng xã hội học nên những vấn đề về mỹ học, về lý luận văn học của giai đoạn này chưa thật sự được làm rõ.

Bổ sung cho những khoảng trống còn chưa được khai phá, luận án tiến sĩ Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam (2001) của Lê Giang đã dùng góc nhìn lịch đại để giải quyết vấn đề về tiến trình vận động của tư tưởng văn học trung đại Việt Nam. Theo tác giả, tiến trình tư tưởng văn học trải qua ba thời kỳ, được sắp xếp như sau:


- Tư tưởng lý luận văn học sơ kỳ trung đại

- Tư tưởng lý luận văn học trung kỳ trung đại

- Tư tưởng lý luận văn học hậu kỳ trung đại: khuynh hướng chính thống

- Tư tưởng lý luận văn học hậu kỳ trung đại: khuynh hướng tài tử

Luận án tiếp cận văn học từ phía lịch sử tư tưởng. Từ các phạm trù của văn học cổ như văn, tình, khí, thần, công trình phục dựng lại quá trình ra đời, phát triển tư tưởng lý luận văn học Việt Nam thời kỳ trung đại, đồng thời chỉ ra rằng quan niệm văn học của người xưa không chỉ gói gọn ở hai mệnh đề “Văn dĩ tải đạo” và “Thi dĩ ngôn chí”. Riêng với văn học giai đoạn hậu kỳ, nhà nghiên cứu đi sâu khai thác tư tưởng của kiểu tác giả tài tử đối lập với kiểu tác giả chính thống. Các phạm trù, khái niệm văn học được theo dõi trên bình diện lịch sử, qua cách cắt nghĩa của các tác giả trung đại thuộc những nhóm loại hình khác nhau:

“Trong sáng tác văn học, họ đề cao tài, tình và cá tính, điều này rất khác với các nhà nho chính thống đề cao chí, tâm, đạo. Chí, tâm, đạo là vấn đề của con người phận vị, còn tài, tình và cá tính là vấn đề của con người cá nhân” [60, tr.112].

Trần Đình Hượu là người đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu loại hình tác giả. Văn sĩ, theo Trần Đình Hượu, tập hợp thành “vùng loại hình”, chia sẻ cùng quan niệm văn học và những tiêu chuẩn về cái đẹp nghệ thuật [88, tr.15]. Sự phân nhóm tác giả chủ yếu phải xét trên ý thức của họ về văn học, không thể chỉ tập trung ở lập trường chính trị xã hội. Phát triển định hướng này, luận án tiến sĩ của Lê Giang đã xây dựng thành công mô hình nghiên cứu dựa trên loại hình tác giả và các phạm trù mỹ học, dùng chính ý thức của người trung đại để hiểu văn học trung đại. Ông nhấn mạnh:

“Rõ ràng là đến Hậu kỳ trung đại trên văn đàn đã xuất hiện một loại tác gia văn chương mới – nhà nho tài tử. Họ đã đem đến văn chương trung đại một loại chất khác, mới mẻ, mang đậm tính chất văn nghệ. Chính loại tác gia này đã tạo nên những thành tựu rực rỡ nhất cho văn chương cổ Việt Nam” [60, tr.106].


Đây là hướng nghiên cứu hứa hẹn nhiều triển vọng vì nó chạm đến những vấn đề thuộc về bản chất của văn học trung đại, đồng thời khơi dậy mối quan tâm đối với việc nghiên cứu nền lý luận của cha ông.

Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong công trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012) dành hẳn một chương “Quan niệm văn học Việt Nam thời trung đại” [tr.217 – 268] để phân tích về sự vận động của quan niệm văn học trong tiến trình văn học trung đại. Ông quan sát sự thay đổi của quan niệm “văn” trong hệ thống “đạo – thánh – văn” và quan niệm “văn” vượt ra ngoài hệ thống “đạo – thánh – văn”. Với phần quan niệm “văn” trong hệ thống “đạo – thánh – văn”, ông chỉ ra như sau:

“Nguyễn Trãi đã trình bày một quan niệm rất điển hình về bản chất, chức năng của văn học chính thống qua đoạn thơ sau:

Văn chương chép lấy đòi câu thánh, Sự nghiệp tua gìn giữ đạo trung.

Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược, Có nhân, có trí, có anh hùng.

(Bảo kính cảnh giới, bài 5)

Các khái niệm đáng chú ý trong đoạn thơ này là văn chương, thánh, đạo. “Văn chương” ở đây được đặt trong thế liên hệ với lời dạy của thánh hiền về đạo, tất nhiên thánh hiền nói đây là thánh hiền của đạo Nho và đạo đây cũng là đạo đức của nho gia” [215, tr.221].

“Thế kỷ XV có nhiều luận văn bàn về thi nhạc thể hiện rõ tinh thần nhân cách lý tưởng và mỹ học trung hòa” [215, tr.227].

“Thánh hiền coi trọng chức năng thẩm mỹ của văn nhưng dừng lại ở mức cần và đủ để chuyển tải, diễn đạt đạo lý ấy chứ không cần theo cái đẹp cầu kỳ, hoa mỹ” [215, tr.233].

“Mối quan hệ giữa văn và đạo hiểu theo tinh thần đạo là chủ, văn là phụ họa trên được nhiều tác giả trung đại thừa nhận, cho mãi đến thế kỷ XIX. [...]. Văn là hiện hình của tâm, mà tâm nói đây là tâm đạo. Văn chương chỉ cốt thể hiện tâm đạo


đó, là sự tràn ra của đạo chất chứa bên trong dưới hình thức ngữ ngôn chứ không là thứ văn chương hoa mỹ, cầu kỳ. Đạo (chứa trong tâm) quyết định văn từ (hiển hiện ra bên ngoài của đạo)” [215, tr.234].

Với phần quan niệm “văn” trong hệ thống “đạo – thánh – văn”, tác giả đã khảo sát công phu từ các “phát biểu có tính chất lý thuyết về văn học nghệ thuật” [215, tr.217] đến thực tiễn sáng tác văn học để đưa ra những nhận định tinh tế về sự biến đổi của mô hình “đạo – thánh – văn” trong văn học trung đại và đặc biệt, trong văn học từ thế kỷ XVIII trở đi. Ông đã viết:

“Theo sự biến chuyển của thời thế, sang thế kỷ XVIII, văn luận nho gia Việt Nam dần thay đổi, tuy là các thay đổi này khá tế vi, cần chú ý quan sát mới thấy được” [215, tr.238].

“Các tác giả đã đề cập đến một vấn đề khác về nguyên tắc so với văn luận kinh học khi nhấn mạnh chủ thể sáng tác và nội dung tâm lý, cảm xúc của những “điều phụ”, “khuê phụ”, những “ky thần trục khách”, những người bị vùi dập uất ức, phẫn uất lo buồn. Bàn về nghệ thuật, họ đã không quan tâm đến mảng sáng tác của các bậc vương giả, quan lại thành đạt nữa: chủ thể sáng tác của những tác phẩm đáng luận bàn đã mở rộng sang tác giả phụ nữ, nhà nho không thành đạt. Không những là đề cao tính chân thực của cảm xúc mà còn là sự khẳng định con người đời thường, con người riêng tư – chứ không phải con người cộng đồng, cũng không phải con người công lợi – mới làm nên giá trị lâu dài của văn học, đây chính là nét mới nổi bật của văn luận giai đoạn thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX” [215, tr.245].

Ông phân tích phạm trù “tài tình”:

“Tất nhiên, nghĩa của phạm trù “tài tình” vốn là một triết lý sống, một quan niệm giá trị nhân bản rộng hơn nghĩa chữ tình, chỉ cảm xúc. Tuy vậy, giữa hai khái niệm cũng có điểm gặp gỡ. Đó là hàm nghĩa về sự chân thực của cảm xúc trong thi ca, nghệ thuật như là một giá trị cần theo đuổi, cần khẳng định, đề cao. Chúng hướng về tự do, cá tính, về giải phóng con người khỏi sự ràng buộc của lý tính đạo đức nho giáo khô khan, nhiều khi là giả dối” [215, tr.248].

Ông cũng lưu ý đến sự khác biệt giữa thi học Đàng Ngoài và Đàng Trong:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/01/2023