Thực Thi Pháp Luật An Toàn Thực Phẩm Tại Quận Hai Bà Trưng


thói quen ăn uống, lựa chọn, chế biến, bảo quản thực phẩm, sinh hoạt lạc hậu có tác động nghiêm trọng đến vấn đề ô nhiễm thực phẩm dẫn đến ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm.

Một số phong tục tập quán sinh hoạt lạc hậu vẫn còn hay gặp ở Việt Nam như: sống gần gia súc, ăn cơm sát mặt đất, chế biến thực phẩm qui mô nhỏ, manh mún, tại gia đình là rất phổ biến như: bánh kẹo, giò chả, bánh cuốn, bún, phở...Các tập quán ăn uống rất phổ biến như ăn rau sống, thịt cá sống, tiết canh [55].

1.2.4. Thực thi pháp luật an toàn thực phẩm tại quận Hai Bà Trưng

Quận Hai Bà Trưng là một quận đông dân, dân trí không đồng đều với 310.767 người, hơn 71.000 hộ thuộc 20 phường trên tổng diện tích 10,08 km2. Trên địa bàn quận có 2.442 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống. Số cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm nhiều, luôn biến động do đó công tác quản lý an toàn thực phẩm gặp nhiều khó khăn.

Quận đã bám sát sự chỉ đạo của trung ương, thành phố để triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về ATTP. Quận đã kiện toàn ban chỉ đạo ATTP cấp quận, phường, chủ động xây dựng và triển khai có hiệu quả các hoạt động đảm bảo ATTP. Công tác quản lý ATTP được đưa vào nghị quyết của quận ủy, đảng ủy, hội đồng nhân dân các cấp hàng năm. Mặc dù đã tăng cường kiểm tra thường xuyên, đột xuất, theo chuyên đề tại các cơ sở kinh doanh, chế biến thực phẩm, đặc biệt trong các dịp lễ, tết, tháng hành động vì chất lượng ATTP, đợt xuất hiện dịch bệnh… Tuy nhiên trong năm 2013, kiểm tra 756 lượt cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, số cơ sở vi phạm các quy định của pháp luật về ATTP chiếm khoảng 10%, xử phạt hành chính 41 cơ sở, hủy khoảng 06 tấn thực phẩm; năm 2014, kiểm tra 1.046 lượt cơ sở, số cơ sở vi phạm ATTP chiếm khoảng 15%, xử phạt 88 cơ sở, hủy khoảng 06 tấn thực phẩm [109]. Đây là nguy cơ cao gây ngộ độc thực phẩm trên địa bàn quận. Các lực lượng chức năng không thể kiểm soát liên tục tất cả các cơ sở mà cần kết hợp nhiều cơ chế, trong đó nâng cao việc thực thi pháp luật về ATTP của các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống mang ý nghĩa then chốt [48].



1.3. CÁC GIẢI PHÁP CAN THIỆP NÂNG CAO VIỆC THỰC THI PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM

1.3.1. Trên thế giới

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Thành công của các chương trình an toàn thực phẩm phụ thuộc nhiều vào việc sử dụng các biện pháp và công cụ hợp lý. Các biện pháp và công cụ chính đang được sử dụng tại các quốc gia phát triển là thực hành vệ sinh tốt (GHP), thực hành sản xuất tốt (GMP), phân tích mối nguy hiểm và kiểm soát tới hạn (HACCP) [35]. Các tiêu chuẩn được áp dụng trong bảo đảm an toàn thực phẩm đã được sử dụng như ISO 9000, ISO 1998, ISO 22000. Mặc dù vậy, các vụ ngộ độc thực phẩm vẫn xảy ra thường xuyên. Năm 2011, cứ 6 người dân Mỹ, có một người bị ngộ độc thực phẩm; ảnh hưởng tới 48 triệu người, với 128.000 người nhập viện và 3000 người tử vong, chi phí điều trị lên tới 5-6 tỉ đô la [139] [151]. Việc giám sát và bảo đảm ATTP được giao cho hai Bộ là Bộ Nông nghiệp (cơ quan phụ trách là CDC) và Bộ Y tế (cơ quan phụ trách là FDA) [125]. Hiện tại, Cục quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đang tiến hành xây dựng hệ thống kiểm soát thực phẩm tới tận cơ sở sản xuất ở nước ngoài như Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Âu. Tại Australia, mặc dù chính phủ nước này đã xây dựng Luật thực phẩm từ năm 1908, tuy nhiên đến nay, mỗi năm vẫn có trên 4 triệu ca nhiễm độc thực phẩm với số lượng bệnh nhân lên tới

11.500 ca mỗi ngày [123].

Thực trạng và hiệu quả giải pháp can thiệp thực thi pháp luật an toàn thực phẩm của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội - 5

Châu Âu có chiến lược an toàn thực phẩm khác nhau tại các quốc gia trong liên minh này do đặc thù chính trị. Tuy nhiên, có các quy định để các quốc gia, các tổ chức độc lập có thể kiểm tra chéo, giám sát lẫn nhau. Năm 2002, Nghị viện Châu Âu ban hành luật về thực phẩm quy định thống nhất về cơ sở pháp lý, định nghĩa, quy tắc, trách nhiệm của tất cả các bước trong quy trình sản suất thực phẩm mà các quốc gia thành viên phải tuân thủ. Để bảo đảm ATTP, liên minh Châu Âu thực hiện chiến lược từ trang trại tới bàn ăn, trong đó đặt trọng tâm vào: 1. Nguyên tắc về chuỗi thức ăn; 2. Trách nhiệm của nhà sản xuất; 3. Nguyên tắc về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm; 4. Độc lập trong đánh giá rủi ro; 5. Tách biệt đánh giá rủi ro và quản lý rủi ro; 6. Các nguyên tắc phòng hộ; 7. Minh bạch thông tin [132].


Nhật Bản đã xây dựng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm phong phú. Các văn bản pháp luật quy định rất chặt chẽ về tất cả các công đoạn của sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu, nhập khẩu thực phẩm. Chính phủ Nhật xây dựng các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp bảo đảm an toàn thực phẩm thông qua cơ chế thuế, giá cả… [131].

Malaysia đã xây dựng chương trình kiểm soát chất lượng thực phẩm từ những năm 50 của thế kỷ 20. Thực hiện chương trình này là Bộ Y tế và chính quyền địa phương. Năm 1983, Pháp lệnh thực phẩm được ban hành, là cơ sở pháp lý để thực hiện chiến lược ATTP trên phạm vi toàn quốc. Chiến lược này tập trung vào năng lực của hệ thống thanh tra, kiểm tra nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm. Chính sách bảo đảm sản xuất, chế biến, lưu thông an toàn được đưa vào nội dung hoạt động của các bộ ngành liên quan [148].

Tại Thái Lan, chính sách ATTP tập trung vào nâng cao năng lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra và việc quản lý thực phẩm dựa trên sự phân tích nguy cơ. Thái Lan chú trọng cải cách, hoàn thiện pháp luật theo hướng quy định rõ các biện pháp giám sát dựa trên phân tích nguy cơ để cập nhật các tiêu chuẩn về sản xuất, chế biến, nhập khẩu và phân phối hợp lý. Áp dụng các biện pháp giáo dục người tiêu dùng, kỹ thuật, giám sát, hợp tác nhằm kiểm soát chất lượng của thực phẩm trước khi đưa ra thị trường [133].

1.3.2. Tại Việt Nam

Hiện nay, nước ta đang áp dụng các giải pháp giám sát an toàn thực phẩm chính là quản lý thức ăn đường phố, mô hình cải thiện ATTP đối với dịch vụ ăn uống tại thành phố Hà Nội giai đoạn 2013-2015 (áp dụng tại Hà Nội) và quản lý thực phẩm theo chuỗi thức ăn (áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh). Cả ba giải pháp đều hoạt động có hiệu quả. Từng bước, hai giải pháp này đang được mở rộng tại địa bàn các địa phương trong cả nước có tính chất đô thị. Đặc biệt là giải pháp quản lý thức ăn đường phố, kinh doanh dịch vụ ăn uống. Bên cạnh đó, còn nhiều giải pháp khác đã được áp dụng và thử nghiệm phù hợp với đặc điểm của địa bàn nông thôn, miền núi, phù hợp với đặc điểm phong tục tập quán [36].



1.3.2.1. Quản lý thức ăn đường phố

Thức ăn đường phố (TAĐP) là những thực phẩm dùng để ăn ngay, uống ngay trong thực tế được thực hiện thông qua hình thức bán rong, bày bán trên đường phố, nơi công cộng hoặc những nơi tương tự [69]. TAĐP là khâu quan trọng trong mạng lưới cung cấp thực phẩm bởi nó rất đa dạng, tiện lợi và giá cả lại phù hợp với đa số người lao động có thu nhập thấp. Bên cạnh việc tiện lợi cũng xuất hiện nhiều nguy cơ tiềm ẩn gây ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua đường thực phẩm, do người chế biến thiếu kiến thức và thực hành về ATTP, thiếu hạ tầng cơ sở và thiếu các điều kiện vệ sinh môi trường. Đây là vấn đề đang được các nhà quản lý, khoa học y tế quan tâm và là mối lo ngại cho người tiêu dùng về tính an toàn của thức ăn không đảm bảo chất lượng vệ sinh.

Giải pháp quản lý giám sát thức ăn đường phố đã được thực hiện ở Hà Nội lần đầu tiên từ năm 1998. Các tiêu chí vệ sinh an toàn thức ăn đường phố của Hà Nội được xây dựng căn cứ vào các văn bản pháp quy của nhà nước. Năm 1998 có 5 tiêu chí áp dụng trên 5 phường, năm 1999 có 6 tiêu chí áp dụng trên 12 phường, năm 2000 nâng lên 7 tiêu chí áp dụng trên diện rộng 110 phường và thị trấn. Vệ sinh an toàn thức ăn đường phố ở Hà Nội đã có hiệu quả rõ rệt góp phần khống chế các bệnh dịch lây lan theo đường ăn uống và không để xảy ra các vụ ngộ độc lớn (trên 30 người/vụ) [80]. Ngày 11/9/2000 dựa trên các tiêu chí của Hà Nội, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 3199/QĐ-BYT với “10 tiêu chí vệ sinh an toàn thức ăn đường phố” và được triển khai thực hiện ở 61 tỉnh thành [8]. Ủy ban nhân dân các phường, quận của thủ đô đã tổ chức gần 350 ban chỉ đạo chăm sóc sức khỏe ban đầu, do các phó chủ tịch ủy ban nhân dân làm trưởng ban, có trách nhiệm chính về đảm bảo ATVSTP, đặc biệt là thức ăn đường phố trong địa bàn. Nhờ vậy, tình trạng ngộ độc thức ăn đường phố ở Hà Nội đã giảm mạnh.

Trước đây, ngành y tế vẫn thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ: vừa đề xuất giải pháp quản lý, vừa trực tiếp thực hiện các giải pháp quản lý đó. Tuy nhiên, do ngành không đủ nhân lực và thẩm quyền xử lý vi phạm nên các giải pháp không phát huy được hiệu quả. Trước tình hình đó, chính phủ đã đề nghị UBND các cấp chủ trì ở tất


cả các địa phương. Giải pháp này khắc phục được cả hai nhược điểm trên. Thứ nhất, với sự tham mưu của ngành y tế, UBND sẽ đưa ra các chính sách, chế tài... để quản lý thức ăn đường phố, các cơ sở sản xuất, kinh doanh chế biến thực phẩm, như bắt buộc các cơ sở dịch vụ phải đủ điều kiện cơ sở vật chất mới được kinh doanh, nhân viên của các cơ sở này phải có giấy chứng nhận tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm, được khám sức khỏe... Thứ hai, với sự chủ trì của UBND các cấp, các lực lượng như kinh tế, môi trường công an, quản lý thị trường... sẽ phối hợp chặt chẽ để phát hiện và xử lý kịp thời những nơi vi phạm, bù vào khoảng trống do ngành y tế thiếu lực lượng thanh tra.

Đến năm 2005, 100% xã phường của Hà Nội triển khai thực hiện 10 tiêu chí với tổng số cơ sở thức ăn đường phố được quản lý là 13.315 cơ sở. Hà Nội đã xây dựng chỉ tiêu ký cam kết đạt 90% các cơ sở được quản lý về thực hiện tốt 10 tiêu chí thức ăn đường phố, 70% nhân viên trực tiếp chế biến thực phẩm được khám sức khoẻ [116]. Đoàn kiểm tra liên ngành của phường, xã kiểm tra, giám sát việc thực hiện 10 tiêu chí vệ sinh an toàn TAĐP, ít nhất 4 lần/1 cơ sở/năm. Khi kiểm tra phải sử dụng các phương pháp xét nghiệm nhanh, có áp dụng các hình thức xử lý theo nghị định của Chính phủ. Những cơ sở nào đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ được cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP. Qua kiểm tra thấy tỷ lệ đạt trung bình của 10 tiêu chí là 83,2%. Năm 2005, Hà Nội triển khai điểm tại 8 phường, tỷ lệ đạt trung bình của 10 tiêu chí là 91,2% [80].

Tại các địa phương khác, quản lý thức ăn đường phố cũng đã được triển khai. Trong 3 năm 2005-2007, điều tra về người cung cấp dịch vụ TAĐP đã cho thấy các tiêu chí vệ sinh nơi kinh doanh hầu hết đều đạt yêu cầu trên 75%. Dụng cụ phương tiện chế biến đạt yêu cầu trên 80%. Xử lý thực phẩm sống chín đạt yêu cầu trên 96%. Thực hành rửa tay yêu cầu trên 95%. Tuy nhiên, việc bố trí bếp chưa đạt yêu cầu (37,6%), thiếu tủ lạnh bảo quản (31%), thiếu trang bị bảo hộ dưới 9%, không khám sức khỏe định kỳ và trang bị các kiến thức an toàn thực phẩm [20].

Mặc dù tình hình bảo đảm an toàn thực phẩm đã có những bước chuyển biến nhất định, nhưng thông qua kiểm tra các năm cho thấy tình hình ATTP vẫn cần


được quan tâm nhiều hơn nữa. Năm 2009 tại Hà Nội, kết quả kiểm tra vệ sinh thực phẩm: cơ sở sản xuất đạt 79%; cơ sở kinh doanh đạt 81%; cơ sở dịch vụ ăn uống đạt 86%. Tỷ lệ này cũng tương đương vào năm 2010 (cơ sở sản xuất đạt 78,4%, cơ sở kinh doanh đạt 79,1%, cơ sở dịch vụ ăn uống đạt 81,1%). Tỉ lệ các cơ sở đạt tiêu chí ATTP năm 2011 cũng đạt mức 80,5% [46].

Như vậy, có thể nhận thấy với quản lý thức ăn đường phố được tiến hành khá phù hợp áp dụng tại các địa bàn đô thị, khu vực đông dân cư để có thể kiểm soát ATTP. Chính quyền thành phố cần có chiến lược bảo đảm an toàn thực phẩm lâu dài, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, thực hiện thắng lợi chiến lược an toàn vệ sinh thực phẩm 2010-2020, tầm nhìn tới 2030 của chính phủ. Chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 của chính phủ đề ra với các mục tiêu cụ thể là: nâng cao kiến thức và thực hành về ATTP cho các nhóm đối tượng; tăng cường năng lực của hệ thống quản lý ATTP; cải thiện rõ rệt tình trạng bảo đảm ATTP của các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm; cải thiện rõ rệt tình trạng đảm bảo an toàn thực phẩm của các cơ sở kinh doanh thực phẩm; ngăn ngừa có hiệu quả tình trạng ngộ độc thực phẩm cấp tính; tiến đến năm 2030 công tác ATTP được quản lý một cách chủ động, có hiệu quả dựa trên các bằng chứng và thực hiện kiểm soát theo chuỗi [98].

1.3.2.2. Đề án mô hình cải thiện thực phẩm đối với dịch vụ ăn uống tại phường, thị trấn của 29 quận, huyện, thị xã (hiện 30 quận, huyện, thị xã) thành phố Hà Nội.

Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đưa ra quyết định số 4815/QĐ-UBND, phê duyệt đề án “Triển khai mô hình cải thiện an toàn thực phẩm đối với dịch vụ ăn uống tại các phường, thị trấn của 29 quận huyện, thị xã thuộc thành phố giai đoạn 2013-2015” [113]. Mục tiêu của đề án là nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm đối với dịch vụ ăn uống nhằm giảm thiểu ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm góp phần bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng và văn minh đô thị.

Các chỉ tiêu cụ thể: 100% các phường, thị trấn của 29 quận, huyện, thị xã triển khai mô hình cải thiện ATTP đối với dịch vụ ăn uống; trên 85% cán bộ làm


công tác quản lý ATTP hiểu và triển khai thực hiện đúng các quy định an toàn thực phẩm; trên 75% người chế biến dịch vụ ăn uống hiểu và thực hành đúng các quy định ATTP; trên 75% người tiêu dùng có kiến thức và biết cách lựa chọn cơ sở dịch vụ ăn uống đảm bảo ATTP; trên 85% cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP; mỗi phường, thị trấn xây dựng 01 tổ giám sát ATTP để tăng cường giám sát bảo đảm ATTP trên địa bàn; triển khai thí điểm xây dựng và duy trì được 01 tuyến phố tập trung dịch vụ ăn uống đảm bảo ATTP. Nội dung cụ thể:

- Duy trì và nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ATTP dịch vụ ăn uống: hàng năm kiện toàn ban chỉ đạo VSATTP và phân công nhiệm vụ cho các thành viên ban chỉ đạo; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý chặt chẽ các cơ sở dịch vụ ăn uống đang hoạt động trên địa bàn; điều tra thực trạng ban đầu điều kiện ATTP cơ sở dịch vụ ăn uống, thực trạng kiến thức, thực hành 03 nhóm đối tượng: người quản lý ATTP tại địa phương, người tiêu dùng, người chế biến thực phẩm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống; hướng dẫn bồi dưỡng kỹ năng triển khai thực hiện các hoạt động của đề án cho cán bộ làm công tác ATTP dịch vụ ăn uống tại thành phố, chuyên trách thực hiện đề án tại quận, huyện, xã phường, thị trấn; xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đối với ban chỉ đạo và các cấp.

- Nâng cao nhận thức, thực hành đúng về ATTP dịch vụ ăn uống của người quản lý ATTP tại địa phương, người tiêu dùng, người chế biến thực phẩm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống: đa dạng hóa các loại hình truyền thông nhằm tuyên truyền tới người tiêu dùng và người kinh doanh dịch vụ ăn uống các quy định về ATTP, lựa chọn thực phẩm an toàn; tập trung tuyên truyền dịch vụ ăn uống vào các đợt cao điểm; đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, hướng dẫn cập nhật kỹ năng truyền thông về dịch vụ ăn uống cho tổ giám sát ATTP, báo cáo viên chuyên ngành ATTP; chụp ảnh thực địa tại một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống trước và sau khi triển khai đề án; tổ chức hội thi tìm hiểu kiến thức về ATTP dịch vụ ăn uống.

- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ các cơ sở dịch vụ ăn uống, không để xảy ra ngộ


độc thực phẩm lớn, hạn chế các bệnh dịch lây truyền qua đường thực phẩm: thành lập tổ giám sát ATTP dịch vụ ăn uống; triển khai giám sát hướng dẫn các quy định về ATTP đối với các cơ sở dịch vụ ăn uống trong đề án; tăng cường công tác kiểm tra giám sát các quy định ATTP các cơ sở dịch vụ ăn uống; thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn sự cố về ATTP; tổ chức tập huấn khám sức khỏe, cấp giấy xác nhận tập huấn và giấy xác nhận sức khỏe cho người chế biến, kinh doanh dịch vụ ăn uống; thực hiện tốt công tác tiếp nhận hồ sơ, thẩm định và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP theo quy định.

- Thí điểm xây dựng triển khai hoạt động “Mô hình tuyến phố tập trung dịch vụ ăn uống đảm bảo ATTP”: lựa chọn 10 quận có tuyến phố tập trung lớn hơn 10 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống; xây dựng kế hoạch để triển khai mô hình tại tuyến phố; xây dựng tiêu chí tuyến phố tập trung dịch vụ ăn uống bảo đảm ATTP; xây dựng và triển khai mô hình tuyến phố tập trung dịch vụ ăn uống bảo đảm ATTP.

1.3.2.3. Quản lý thực phẩm theo "Chuỗi thực phẩm an toàn"

Đề án “Xây dựng mô hình điểm quản lý thực phẩm theo chuỗi thực phẩm an toàn tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2015” đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt năm 2011, theo đó thực phẩm được kiểm soát nghiêm ngặt nay từ khâu con giống, cây trồng, nuôi trồng, sơ chế, bảo quản, lưu thông, sản xuất, chế biến đến tay người tiêu dùng với mục tiêu nhằm hạ thấp bền vững vụ ngộ độc thực phẩm, kiểm soát được ngộ độc cấp tính cá thể trong dân và tiến tới kiểm soát ngộ độc thực phẩm mãn tính cho người dân.

Từ năm 2011, thành phố Hồ Chí Minh có những cửa hàng chuyên bán thực phẩm sạch gắn mác "Thực phẩm chuỗi". Mọi sản phẩm, hàng hóa tại đây đều đạt tiêu chuẩn sạch và an toàn nhờ được kiểm soát từ khâu con giống, thức ăn chăn nuôi, giết mổ, sơ chế đến chế biến...sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng là sản phẩm sạch, an toàn. Sản phẩm sẽ được kiểm soát chặt về chất lượng và an toàn thực phẩm thông qua tiêu chuẩn VietGAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt của Việt Nam). Các nguyên liệu đầu vào của quá trình nuôi trồng sẽ được giám sát chất lượng như cây và con giống, thức ăn, nguồn nước, việc sử dụng thuốc thú y và

Xem tất cả 195 trang.

Ngày đăng: 16/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí