người tàn tật… làm chủ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển DNV&N đầu tư sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao.
- Hoạt động trợ giúp của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các DNV&N.
- Gắn hoạt động kinh doanh với bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
- Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trũ của DNV&N trong phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu phát triển DNV&N:
- Số DNV&N thành lập mới khoảng 320.000 doanh nghiệp (hàng năm tăng khoảng 22%)
- Tỷ lệ tăng DNV&N thành lập mới tại các tỉnh khó khăn là 15% đến năm 2010
- Tỷ lệ trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3- 6% trong tổng số DNV&N
- Tạo thêm khoảng 2,7 triệu chỗ làm mới trong giai đoạn 2006-2010
- Có thêm 165.000 lao động được đào tạo kỹ thuật làm việc tại các DNV&N
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hoạt Động Của Các Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ Việt Nam
- Số Lượng Dnv&n Phân Theo Ngành Nghề Kinh Doanh (Giai Đoạn 2000 – 20006)
- Khó Khăn Trong Tiếp Cận Thông Tin Công Nghệ Và Lựa Chọn, Ứng Dụng Công Nghệ
- Thực trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc thời kỳ hậu WTO. Bài học cho Việt Nam - 13
- Thực trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc thời kỳ hậu WTO. Bài học cho Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Các nhóm giải pháp:
- Đơn giản hoá các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký kinh doanh, gia nhập thị trường và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
- Tạo điều kiện tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất cho các DNV&N
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N tiếp cận các nguồn vốn, ưu tiên các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hàng có giá trị gia tăng cao
- Các chương trình hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực và cải thiện khả năng cạnh tranh của các DNV&N
- Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển DNV&N giai
đoạn 2006-2010
- Tạo lập môi trường tâm lý xã hội đối với khu vực DNV&N
- Quản lý thực hiện Kế hoạch phát triển DNV&N giai đoạn 2006-2010
3. Giải pháp vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
3.1. Những nét tương đồng giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam và Trung Quốc
Về môi trường kinh tế-xã hội: Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng về văn hoá xã hội cũng như về đặc điểm kinh tế. Chế độ phong kiến đã có thời gian tồn tại lâu đời ở cả hai quốc gia với hình thức cá nhân trị, vua nắm mọi quyền hành trong xã hội, cai trị chủ yếu bằng mệnh lệnh, các mối quan hệ thân quen là nguyên tắc chính chi phối mọi quyết định và đẩy luật pháp xuống hàng thứ yếu.Trong khi đó, văn hoá truyền thống các nước phương Tây là thiết lập nên các quy tắc, luật lệ, quản lý xã hội bằng pháp luật. Sau khi thoát khỏi chế độ phong kiến, cả Việt Nam và Trung Quốc đều bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa để bước vào giai đoạn quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa.
Về kinh tế, trong giai đoạn phong kiến, nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của hai quốc gia. Sau khi thoát khỏi chế độ phong kiến, cả hai nước đều xây dựng chế độ tập trung, bao cấp theo mô hình kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô cũ. Do học hỏi mô hình phát triển của Liên Xô cũ cả hai nước đều tập trung phát triển công nghiệp nặng trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ điều kiện kinh tế cần thiết khiến nền kinh tế hai nước rơi vào kiệt quệ, lãng phí tài nguyên và các nguồn lực khác. Trong giai đoạn này, kinh tế Nhà nước chiếm vị trí độc quyền, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh kém phát triển do không được thừa nhân và chịu sự o ép vì các lý do chính trị.
Sau khi thực hiện cải cách và mở cửa nền kinh tế, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới có cơ hội phát triển, Chính phủ cũng dần nhận thức được vai trò của khu vực kinh tế này và coi đó là một thành phần kinh tế không thể thiếu. Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở hữu. Trong kế hoạch phát triển của cả Việt Nam và Trung Quốc, DNV&N được coi là động lực phát triển kinh tế. Cả hai nước đều nỗ lực để tạo môi trường ổn định, bình đẳng, hỗ trợ DNV&N phát triển trong xu thế hội nhập.
Đặc điểm riêng của doanh nghiệp: DNV&N Việt Nam và Trung Quốc có tiêu chuẩn xác định khác nhau song có nhiều điểm tương đồng. Trong số các DNV&N, doanh nghiệp tư nhân chiếm một tỷ lệ lớn mà khu vực này mới được Chính phủ thừa nhận nên chưa có điều kiện tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu DNV&N bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tập thể (hợp tác xã), doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân khu vực nông thôn chủ yếu là những người nông dân thành lập doanh nghiệp sau cải cách nên họ thiếu kiến thức chuyên môn, quản lý doanh nghiệp chủ yếu nhờ vào khả năng vốn có và sự nhạy bén với thời cuộc. Công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là dân địa phương mà đa số là nông dân. DNV&N hai nước có lợi thế so sánh trong những ngành sử dụng nhiều lao động. DNV&N cả hai nước đều trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, trong khi đó việc huy động vốn lại khó khăn nên không có điều kiện đổi mới công nghệ. Trong xu thế phát triển của DNV&N ở Việt Nam và Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng của khu vực ngoài quốc doanh tăng nhanh hơn so với khu vực Nhà nước. Hiẹn nay, cả hai nước đều đang tiếp tục đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bằng nhiều biện pháp để DNV&N hoạt động hiệu quả, có khả năng đứng vững trong hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ các biện pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc
3.2.1. Thống nhất nhận thức, quan điểm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc các DNV&N hoàn toàn có thể chủ động tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế vì các doanh nghiệp không chỉ được bảo vệ ở thị trường trong nước mà còn được taoh điều kiện phát triển ở thị trương nước ngoài. Từ sự nhìn nhận đúng đắn về vai trò của DNV&N mà đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, Trung Quốc đã nhanh chóng tiến hành hàng loạt cải cách, thực thi các chính sách hỗ trợ nhằm tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển. Việt Nam cần phải học tập Trung Quốc trong việc thống nhất tư tưởng từ Trung ương đến địa phương, cụ thể hoá các chiến lược phát triển trong từng giai đoạn phù hợp với tình hình thực tiễn để xây dựng được một khung chính sách hoàn thiện.
Hiện tại Chính phủ Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng của DNV&N đối với nền kinh tế và cũng đã ban hành một số chính sách hỗ trợ song việc triển khai các chính sách này vẫn còn chậm chạp, nhận thức về quan điểm và chính sách của Nhà nước chưa triệt để. Việt Nam cũng chưa thực sự ý thức được tầm quan trọng của DNV&N đối với sự phát triển của đất nước trong khi các chính quyền địa phương ở Trung Quốc không chỉ quán triệt chủ trương của Nhà nước mà còn tự mình tìm ra các giải pháp riêng để thúc đẩy DNV&N ở địa phương.
3.2.2. Mở cửa thị trường cho các thành phần kinh tế cùng tham gia
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc phải mở cửa thị trường cho nhiều đối tác nước ngoài trong các lĩnh vực sản xuất, tài chính…Tuy nhiên, cho đến nay không phải tất cả các thành phần kinh tế đều được tham gia vào các lĩnh vực quan trọng như tài chính, bất động sản. Điều này làm hạn chế khả
năng huy động vốn của các DNV&N trong việc tiếp cận các khoản tín dụng từ phía các ngân hàng.
Từ trường hợp của Trung Quốc, Việt Nam cần rút ra bài học về việc cần phải mở cửa khu vực tài chính cho các doanh nghiệp nói chung và DNV&N nói riêng.
3.2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào khoa học công nghệ
Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng như Việt Nam có trình độ công nghệ lạc hậu hơn nhiều so với các quốc gia khác trên thế giới. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, nếu các doanh nghiệp không đổi mới khoa học công nghê để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm thì sẽ không thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. DNV&N có lợi thế về quy mô nhỏ nên dễ dàng thay đổi công nghệ, áp dụng kịp thời các công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đổi mới công nghệ trong DNV&N sẽ là nền tảng để nâng cao trình độ công nghệ của cả nền kinh tế. Chính vì vậy đổi mới và cải tiến công nghệ được coi là nhiệm vụ chiến lược của nền kinh tế. Việt Nam nên học tập các biện pháp tích cực mà Trung Quốc đã làm để đổi mới và cải tiến khoa học công nghệ như thành lập quỹ khoa học công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, hỗ trợ về vốn cho các dự án công nghệ cao…
3.3. Một số kiến nghị nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
3.3.1. Cải thiện môi trường pháp lý và đầu tư kinh doanh phù hợp
Để phát triển DNV&N, Nhà nước cần tập trung hơn nữa cho việc hoạch định thể chế, chính sách; tiếp tục tạo lập các loại thị trường, hình thành đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với DNV&N cũng như đối với các doanh nghiệp nói chung, yêu cầu cơ bản và bức thiết hiện nay là hệ thống pháp luật phải tháo gỡ cho doanh nghiệp về ba mặt: (1) tự do kinh doanh theo pháp luật; (2) tự chủ, tự chịu trách nhiệm; (3) bình đẳng trước pháp luật và chính sách Nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu đó chúng ta phải phấn đấu lành mạnh hoá môi trường kinh doanh thông qua việc xây dựng và hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống thể chế, chính sách kinh tế bởi vì như thực tiễn đã cho thấy, nếu không có sân chơi bình đẳng thì không thể có sự phát triển lành mạnh, hiệu quả cũng như liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được cả ba mặt nêu trên còn là một quá trình phấn đấu lâu dài.
Nhà nước cần chú ý vai trò quan trọng của mình đối với DNV&N (chủ yếu là kinh tế tư nhân) trên ba mặt sau:
- Khuyến khích: Vì DNV&N chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tư nhân cho nên trong các thể chế, chính sách Nhà nước cần thể hiện rõ quan điểm khuyến khích kinh tế tư nhân, thực sự coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế khác trong sản xuất, kinh doanh, không phân biệt đối xử (như về mặt bằng, doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh nghiệp tư nhân phải bình đẳng như nhau, hoặc bình đẳng trong vay vốn tín dụng…). Những chủ trương, chính sách có tác dụng khuyến khích phát triển DNV&N cần được Nhà nước hỗ trợ để đưa vào thực hiện trong thực tế.
- Trợ giúp: DNV&N Việt Nam chưa quen với nền kinh tế thị trường, nhất là trong cạnh tranh với khu vực và trên thế giới nên rất cần sự trợ giúp của Nhà nước trong việc tiếp cận thị trường, nâng cao kỹ năng quản lý, trình độ khoa học công nghệ trong việc thực hiện các cuộc tham quan, khảo sát, dự hội chợ, triển lãm ở nước ngoài…Nhà nước phải đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là đường sá, bảo đảm giao thông thông suốt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển thị trường. Quan trọng không kém là mặt bằng sản xuất kinh doanh: cơ quan hành chính ở các địa phương phải giúp đỡ DNV&N trong các công việc như đền bù, giải toả, giải phóng mặt bằng…
- Hướng dẫn: trước hết Nhà nước cần hoàn chính khung pháp lý để giúp DNV&N kinh doanh đúng hướng, không vi phạm các quy định về quản lý Nhà nước như các quy chế, thủ tục về đăng ký kinh doanh, quy hoạch và thuê mặt bằng, nộp thuế, bảo vệ môi trường, quy định về quản lý đô thị…Vai trò của các cơ quan chức năng là hướng dẫn DNV&N kinh doanh đúng pháp luật, ngăn ngừa vi phạm chứ không phải là đợi cho họ phạm luật rồi xử phạt; việc thanh tra, kiểm tra cũng nhằm mục đích trước hết là hướng dẫn doanh nghiệp kinh doanh đúng pháp luật chứ không phải nhằm vào xử phạt là chính.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách trợ giúp DNV&N, nhiều chính sách đã phát huy tác dụng tốt. Dưới đây là một số kiến nghị liên quan đến những chính sách tiêu biểu và quan trọng nhất:
Về tín dụng:
Thiếu vốn đầu tư kinh doanh đang là một trong những khó khăn lớn nhất của DNV&N. DNV&N thiếu vốn và cũng rất khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng chính thức do không có tài sản thế chấp khi vay vốn.
Nhà nước và các chính quyền địa phương phải có chính sách rất cụ thể và thiết thực để hỗ trợ mặt bằng sản xuất ổn định, lâu dài cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trước thực trạng thiếu vốn do nhu cầu sản xuất kinh doanh của DNV&N Việt Nam, Nhà nước cần xác lập và triển khai chương trình hỗ trợ vốn cho các DNV&N. Trong đó hỗ trợ vốn cho cả hai loại: hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu để hình thành doanh nghiệp và hỗ trọ vốn vay khi doanh nghiệp thiếu vốn, có nhu cầu đầu tư mở rộng kinh doanh. Hiện tại, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là các DNV&N vay vốn với lãi suất ưu đãi 4%/năm. Cơ chế thành lập và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N cũng cần được xem xét hoàn chỉnh để đẩy nhanh việc thành lập quỹ ở các địa phương, đảm bảo cho quỹ này thực sự trở thanh
công cụ hữu hiệu trợ giúp cho DNV&N tìm kiếm vốn cho sản xuất kinh doanh
Bên cạnh đó, các ngân hàng cần đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường và nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, cải tiến thủ tục cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục cải tiến quy trình cho vay nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay của các ngân hàng thương mại hiện nay. Đồng thời cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức bảo đảm tín dụng để thích ứng với đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp tục nghiên cứu và triển khai mạnh việc phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng mới như dịch vụ tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, bảo quản vật có giá, cung cấp các dịch vụ sản phẩm bảo hiểm, uỷ thác... cùng với đó là chú trọng tới hoạt động marketing, quảng bá sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến quảng đại công chúng cũng như tới cộng đồng các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Để nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng ngân hàng, các DNV&N cũng cần phải chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng; minh bạch hóa thủ tục sổ sách kế toán; lập kế hoạch dự án chặt chẽ chính xác để tăng tính thuyết phục ngân hàng xem xét thẩm định cho vay.
Về mặt bằng cho kinh doanh:
Việc trợ giúp về mặt bằng sản xuất kinh doanh cho DNV&N ở nhiều địa phương đã có những cải thiện đáng kể. Để khuyến khích và hỗ trợ DNV&N Uỷ ban nhân dân một số tỉnh thực hiện các ưu đãi như: kéo dài thời gian thuê đất, áp dụng mức thấp nhất trong khung giá thuê đất… Tuy vậy tại một số tỉnh, thành phố có số lượng lớn DNV&N, các DNV&N vẫn thiếu mặt bằng sản xuất, có nơi do tình trạng quá tải của các khu, cụm công nghiệp