vốn chứa đựng nhiều rủi ro do các yếu tố tự nhiên cũng như các yếu tố thuộc về năng lực máy móc thiết bị của doanh nghiệp, dẫn đến nguồn doanh thu từ các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực này thường không ổn định, không đảm bảo khả năng thanh toán đủ hoặc đúng hạn cho ngân hàng.
Thứ ba, khả năng tài chính của các ngân hàng còn thấp, mặc dù phần lớn các NHTM Việt Nam đều đạt yêu cầu vốn điều lệ 3,000 tỷ đồng. So với quy mô tài chính của các NHTM trong khu vực thì mức vốn này vẫn ở mức khiêm tốn. Trong bối cảnh hiện nay, năng lực tài chính của các ngân hàng hạn chế, nhất là đối với các NHTM Cổ phần, là một trong các nguyên nhân gây ra khó khăn trong việc triển khai về công nghệ đối với các DVNH mới như Home banking, Internet banking...Ngoài ra, với một thực tế là tiềm lực tài chính của các NHTM Việt Nam còn thấp đã hạn chế qui mô cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng nói chung và các DNNVV, thể hiện trên các mặt như:
+ Hạn chế việc mở rộng mạng lưới giao dịch và áp dụng công nghệ hiện đại nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng dịch vụ;
+ Hạn chế qui mô cung cấp dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng. Trong điều kiện hiện nay cho vay các dự án lớn, các doanh nghiệp lớn chiếm tỷ trọng khá lớn, do tiềm lực tài chính còn hạn chế nên các NHTM gặp khó khăn trong việc tăng trưởng tín dụng nói chung, tín dụng đối với các DNNVV nói riêng.
Thứ tư, hình thức phát triển của các NHTM đối với các sản phẩm tín dụng đối với DNNVV có nhiều điểm tương đồng, như phát triển dịch vụ bán lẻ, dịch vụ tín dụng doanh nghiệp, mở rộng quy mô mạng lưới và phát triển nguồn nhân lực, quản trị điều hành... Điều này phản ánh mặt bằng phát triển chung, song cũng là điểm khó trong xây dựng chiến lược riêng của mỗi NHTM khi muốn tạo dựng sản phẩm riêng của mình trước đối tượng DNNVV.
Thứ năm, sự phối kết hợp giữa các NHTM trong thực hiện các dịch vụ ngân hàng mới còn kém: mỗi hệ thống ngân hàng phát triển một kế hoạch hiện đại hoá cơ sở hạ tầng ít có sự gắn kết với nhau, ví dụ, về hoạt động thanh toán thẻ, séc, máy rút tiền tự động ATM..., gây ra sự lãng phí vốn và thời gian, sự cạnh tranh không đáng có giữa các ngân hàng, sự khó khăn cho lựa chọn của các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ ngân hàng. Hiệu quả sử dụng vì vậy còn thấp. Ngoài ra, các ngân hàng đang ở thời kỳ đầu của giai đoạn 2 về ứng dụng công nghệ thông tin. Ngay cả NHNN vẫn đang thử nghiệm ở giai đoạn 1 của chương trình AFD. Các ngân hàng chưa có
đủ điều kiện để thực hiện các giao dịch chuyển tiền với các tài khoản khác hoặc thanh toán thông qua tài khoản ... theo đúng ý nghĩa của dịch vụ này.
Tóm lại, cùng với việc kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn cũng như việc đã trở thành thành viên của WTO và tiếp đó là thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập, sức ép cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đã đặt ra nhu cầu cấp bách đối với các NHTM trong việc giải quyết nhanh chóng các vấn đề còn tồn tại của mình. Bên cạnh đó, các ngân hàng này tận dụng tối đa các lợi thế của một ngân hàng trong nước như am hiểu thị trường, mạng lưới và hệ thống phân phối… để trụ vững trên thị trường mà trước mắt là thị trường trong nước trước khi mở rộng hoạt động ra bên ngoài.
Có thể bạn quan tâm!
- Chất Lượng Tín Dụng Của Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
- Thực Trạng Diễn Biến Tăng Trưởng Tín Dụng Của Các Dnnvv Trong Mẫu Nghiên Cứu
- Tổng Hợp Các Giải Thuyết Và Dấu Dự Kiến Của Các Biến Độc Lập
- Định Hướng Tăng Trưởng Tín Dụng Đối Với Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Ở Việt Nam Từ Phía Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
- Mẫu Điểm Đánh Giá Cho Các Nhtm Về Chiến Lược Tăng Trưởng Tín Dụng Cho Dnnvv Và Năng Lực Thực Hiện
- Xây Dựng Quy Trình Tín Dụng Chuẩn Cho Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Như đã phân tích ở trên, hiện nay việc sử dụng và tiếp cận các loại hình dịch vụ ngân hàng, đặc biệt dịch vụ tín dụng ngân hàng của các DNNVV còn một số hạn chế. Bên cạnh những tác động của môi trường vĩ mô đã được phản ánh ở trên, nguyên nhân của những hạn chế này có thể được tóm lược bởi một số các yếu tố sau đây từ phía DNNVV và các ngân hàng thương mại:
Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV là đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn. Mặc dù DNNVV có đặc điểm là có tính linh hoạt cao nhưng do có quy mô và tiềm lực tài chính nhỏ, hoạt động kinh doanh phụ thuộc vào biến động của môi trường kinh doanh do hầu như không có sức mạnh thị trường cũng như năng lực cạnh tranh hạn chế khiến DNNVV trở thành rất dễ bị tổn thương trước những biến động không thuận lợi trong tình hình kinh tế vĩ mô. Trong khi đó, những chính sách hỗ trợ DNNVV từ phía nhà nước chưa phát huy hiệu quả do hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách hỗ trợ hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của các DNNVV chưa đồng bộ, thiếu hướng dẫn cụ thể. Do đó, một khi nền kinh tế nơi vào trạng thái bất ổn, một số lượng lớn DNNVV sẽ gặp nhiều khó khăn, có khả năng giảm quy mô hoạt động hoặc thậm chí dẫn đến phá sản. Vì thế hoạt động tín dụng đối với DNNVV trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn như thời gian qua đã gặp nhiều khó khăn về cả mặt tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng cho đối tượng này.
Yếu kém trong quản trị tài chính nội bộ của các DNNVV có thể được coi là nguyên nhân quan trọng trong việc tiếp cận dịch vụ ngân hàng của các DNNVV. Bên cạnh lịch sử hình thành và phát triển thì các yếu tố có tác động lớn như môi trường kinh doanh, định hướng chiến lược phát triển các DNNVV và các tổ chức
hỗ trợ cũng có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp ở các mức độ khác nhau. Theo quan điểm của tác giả thì đây là nội dung cần được xem xét đầu tiên trong số các giải pháp và kiến nghị phát triển dịch vụ ngân hàng cho các DNNVV. Các hạn chế này được thể hiện qua các mặt:
Nội dung của các báo cáo tài chính được công bố thường không phải là các tài liệu tham chiếu có ý nghĩa. Không có thông tin tài chính chính xác đồng nghĩa với việc không thể đưa ra thông tin chuẩn cho những người điều hành trong việc kiểm soát quản lý và lập kế hoạch. Tình trạng thiếu thông tin tài chính minh bạch và chính xác làm tăng sự nghi ngờ từ phía nhà cung cấp vốn, làm cho DNNVV gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận vốn vay. Nếu DNNVV không có khả năng cải thiện hệ thống tài chính và kế toán cũng như tăng tính minh bạch đối với các thông tin tài chính của họ, thì điều dễ nhận thấy là các ngân hàng sẽ tăng trọng số rủi ro đối với với các doanh nghiệp này, và kết quả là các doanh nghiệp này gặp khó khăn hơn trong việc nhận vốn vay.
Những người điều hành DNNVV không nắm vững các vấn đề liên quan đến lưu chuyền tiền tệ để lập kế hoạch tài chính. Trong môi trường thay đổi nhanh chóng khả năng điều chỉnh để thích nghi vẫn chưa theo kịp hoàn cảnh.
Tài sản bảo đảm cũng là môt hạn chế đối với các DNNVV trong tiếp cận vốn tín dụng. Để đảm bảo an toàn cho khoản cho vay, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm cho khoản vay. Tuy nhiên, phần lớn các DNNVV không có tài sản bảo đảm phù hợp với yêu cầu của ngân hàng. Phần lớn tài sản bảo đảm của các doanh nghiệp này thường có giá trị nhỏ, khả năng thanh khoản cũng như phát mại tài sản không cao hoặc không đảm bảo những điều kiện pháp lý theo quy định. Ngoài ra, một phần các DNNVV mới thành lập có nhu cầu vay vốn ngân hàng nhưng họ chưa tạo lập được vị thế trên thị trường. Do đó, với việc quản trị rủi ro càng ngày được thắt chặt hơn thì việc tăng trưởng tín dụng cho DNNVV gặp nhiều khó khăn.
Các DNNVV còn gặp phải hạn chế về xuất phát từ rủi ro đạo đức để trốn thuế một số DNNVV “chế biến” thông tin kế toán của họ bằng cách giảm thiểu lợi nhuận, khiến cho báo cáo tài chính mất đi tính xác thực. Bên cạnh đó, một số chủ DNNVV đặc biệt là các công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân có khuynh hướng sử dụng nguồn lực của gia đình để điều hành việc kinh doanh, điều này làm giảm tính minh bạch trong hoạt động và góp phần cản trở khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của các doanh nghiệp này.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng thương mại
Một điều không thể phủ nhận rằng trong thời gian gần đây đã có sự cải thiện đáng kể trong thái độ của các NHTM đối với việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho đối tượng DNNVV. Tuy nhiên, một số các yếu tố sau đây đã góp phần tạo nên các hạn chế cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cho DNNVV Việt Nam:
Các ngân hàng chưa xây dựng được một chiến lược tổng thể cho việc tăng trưởng tín dụng cho DNNVV. Một chiến lược tổng thể bao gồm quy trình cụ thể và các công cụ thực hiện chiến lược tăng trưởng tín dụng cho DNNVV trong từng điều kiện và giai đoạn cụ thể, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn vốn chứa đựng nhiều rủi ro sẽ có vai trò rất lớn trong việc mở rộng phạm vi cấp tín dụng cho DNNVV cũng như đảm bảo chất lượng tín dụng trong quá trình tăng trưởng tín dụng của ngân hàng.
Quy trình tín dụng của các ngân hàng còn tổng quan, chưa có quy định cụ thể đối với DNNVV. Quy trình tín dụng chung chưa có những cơ chế cho vay, điều kiện cho vay và kiểm soát khoản vay đặc thù, đảm bảo phù hợp với tính chất, đặc điểm của DNNVV nên chưa đáp ứng được công tác cấp tín dụng cho DNNVV.
Chương trình tín dụng dành cho DNNVV chưa được thiết kế cụ thể phù hợp với đặc thù của DNNVV. Hiện nay, đối với đối tượng DNNVV, mặc dù ngân hàng đã có một số chương trình tín dụng dành cho DNNVV những chương trình này lại mới chỉ mang tính chung chung dưới dạng một gói tín dụng dành cho DNNVV chứ chưa chú trọng tới thiết kế các sản phẩm riêng cho các DNNVV. Vì vậy, để tăng trưởng tín dụng hiệu quả cho đối tượng này ngân hàng cần phải nghiên cứu đưa ra các gói sản phẩm thuận tiện, đáp ứng được nhu cầu của DNNVV hoạt động trong các ngành nghề kinh doanh đa dạng. Trong khi các DNNVV mong muốn các ngân hàng tìm hiểu rõ hơn nhu cầu của DNNVV, hỗ trợ, cung cấp thông tin một cách chính xác cho doanh nghiệp thì khi các DNNVV giao dịch với nhiều ngân hàng hầu như chỉ được cung ứng những sản phẩm riêng lẻ với những đặc điểm, điều kiện và mức giá cố định, đồng nhất cho mọi khách hàng. Điều này đã hạn chế rất nhiều khả năng phát triển và sự linh hoạt của một DNNVV. Bên cạnh đó, ngân hàng cần hỗ trợ đúng thời điểm, và duy trì mức phí cạnh tranh trên thị trường.
Trong vài năm gần đây, khâu quảng bá của các NHTM về dịch vụ ngân hàng hiện đại đã từng bước được đẩy mạnh, tuy nhiên vẫn còn khá hạn chế, chưa đủ sức thuyết phục các khách hàng.
Việc thiết kế và cho ra đời các sản phẩm mới còn hạn chế, do các nghiệp vụ này vừa mới mẻ, đòi hỏi đầu tư lớn, thời gian ban đầu sẽ thu phí thấp và có nguy cơ rủi ro cao;
Năng lực quản trị rủi ro hạn chế của các NHTM đối với các DNNVV, vốn là đối tượng dễ chịu tác động của môi trường kinh doanh, cũng là yếu tố quan trọng góp phần làm gia tăng rủi ro của các dịch vụ ngân hàng cung cấp cho các DNNVV. Điều này cuối cùng sẽ làm giảm hiệu quả của các giao dịch giữa NHTM và DNNVV, cản trở sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam đã gặp phải rất nhiều bất ổn vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm và chất lượng tăng trưởng thấp; lạm phát biến động bất thường và luôn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao; vốn đầu tư toàn xã hội giảm mạnh do môi trường đầu tư bất lợi và triển vọng kinh tế bi quan… Thực trạng này cho thấy các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV có mức độ nhạy cảm cao với chu kỳ kinh tế, đã, đang và sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện những khó khăn kinh tế vĩ mô, dịch vụ ngân hàng cung cấp cho đối tượng DNNVV nhìn chung gánh chịu nhiều tác động, trong đó tín dụng là dịch vụ chịu ảnh hưởng lớn nhất xét trên bình diện đối với cả phía doanh nghiệp và ngân hàng. Trong chương 2 của luận án này, tác giả đã tập trung đánh giá một cách tổng thể thực trạng tăng trưởng tín dụng đối với đối tượng DNNVV trong thời gian qua theo nhiều cách tiếp cận, bao gồm cách tiếp cận định tính và định lượng, cách tiếp cận từ phía dịch vụ tín dụng ngân hàng cũng như nhu cầu huy động vốn của DNNVV. Kết quả phân tích cho thấy do thị phần rộng lớn của các DNNVV, các dịch vụ tín dụng cho đối tượng này trong thời gian qua đã đem lại doanh thu đáng kể cho các NHTM, cơ cấu tín dụng đối với DNNVV dịch chuyển theo hướng tích cực, các NHTM Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào tăng cường tiếp cận với DNNVV. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng cho đối tượng DNNVV vẫn còn một số tồn tại như: tỷ lệ nợ xấu trong dư nợ DNNVV tại các NHTM cao, chuyển dịch cơ cấu tín dụng đối với DNNVV theo ngành nghề kinh doanh còn chậm, hình thức phát triển của các NHTM đối với các sản phẩm tín dụng đối với DNNVV có nhiều điểm tương đồng… Trong môi trường điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn, hoạt động của các DNNVV có thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên nhu cầu đối với các dịch vụ ngân hàng của đối tượng doanh nghiệp này sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai đặc biệt là khi các yếu tố kinh tế vĩ mô đi vào ổn định. Đây chính là cơ sở để các NHTM tăng cường cung cấp tín dụng cho các DNNVV.
Chương 3
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ VĨ MÔ BẤT ỔN
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
Các DNNVV trên thế giới nói chung đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia, đóng góp 50% sản lượng của khu vực kinh tế tư nhân và 63% việc làm. Hoạt động của DNNVV gắn liền với các cộng đồng địa phương, mang lại lối thoát nghèo nàn và phụ thuộc. Trên thực tế, tại các nước có nền kinh tế phát triển các doanh nghiệp lớn hay kể cả các tập đoàn xuyên quốc gia đều hình thành từ các DNNVV cách đây 30, 40 năm. Các DNNVV có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời nhau với các tập đoàn kinh tế, đặc biệt trong việc tạo dựng công nghiệp hỗ trợ và mạng lưới phân phối sản phẩm. Với tính năng động cao, các DNNVV cũng là nơi khởi nghiệp cho các doanh nhân và là môi trường tạo mối liên kết, tích tụ vốn để từng bước hình thành và phát triển các doanh nghiệp lớn. Với đặc điểm chung của các DNNVV, nhất là trong giai đoạn mới hình thành và phát triển (thiếu năng lực về vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý còn hạn chế) các nền kinh tế đều xác định việc hỗ trợ DNNVV từ phía Chính phủ là chính sách lâu dài, chứ không phải là tạm thời.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập cao vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi phải biết tận dụng các lợi thế so sánh và việc phát triển khu vực DNNVV là cơ hội sử dụng tốt các lợi thế này. Do đó việc phát triển DNNVV một cách mạnh mẽ, đúng hướng sẽ góp phần đẩy nhanh và thực hiện tốt quá trình này. Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 - 2015 đã được cụ thể hoá qua quyết định 1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó nêu rõ quan điểm mang tính định hướng về phát triển DNNVV ở nước ta, bao gồm:
Phát triển DNNVV là chiến lược lâu dài, nhất quán và xuyên suốt trong chương trình hành động của Chính phủ, là nhiệm vụ trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế của quốc gia.
Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Phát triển DNNVV theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; phát triển DNNVV phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng địa phương, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống; chú trọng phát triển DNNVV ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn; ưu tiên phát triển và hỗ trợ DNNVV do đồng bào dân tộc, phụ nữ, người tàn tật... làm chủ doanh nghiệp; chú trọng hỗ trợ phát triển DNNVVđầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ, sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao.
Hỗ trợ phát triển DNNVV nhằm thực hiện các mục tiêu quốc gia, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó quyết định 1231/QĐ-TTg cũng thể hiện mục tiêu tổng quát như sau: “Đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, lành mạnh để các DNNVV đóng góp ngày càng cao vào phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế.”
Các mục tiêu định lượng cụ thể bao gồm:
Số DNNVV thành lập mới giai đoạn 2011 - 2015 dự kiến đạt 350,000 doanh nghiệp; tính đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2015 cả nước có 600,000 doanh nghiệp đang hoạt động;
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực DNNVV chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc;
Đầu tư của khu vực DNNVV chiếm 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội;
Khu vực DNNVV đóng góp khoảng 40% GDP; 30% tổng thu NSNN;
DNNVV tạo thêm khoảng 3.5 - 4 triệu chỗ làm việc mới trong giai đoạn 2011 - 2015.
3.1.2. Quan điểm tăng trưởng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn
Tại Việt Nam, DNNVV chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh và là đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong nền kinh tế bởi những cú sốc kinh tế với nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Đặc biệt là trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn, loại hình doanh nghiệp này đã và đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Những khó khăn này bắt nguồn từ các