86 nhân viên y tế được thử phản ứng Mantoux. Đường kính Mantoux trung bình của các nhân viên y tế bệnh viện Lao > 10mm (13.37 ± 7.79)
Bảng 3.20. Kết quả phản ứng Mantoux của nhân viên y tế Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Bình năm 2011
Số lượng (n = 86)* | % | |
Đường kính Mantoux ≥ 10 mm | 56 | 65,1 |
Đường kính Mantoux ≥ 15 mm | 33 | 38,4 |
Đường kính Mantoux ≥ 20 mm | 20 | 23,3 |
Đường kính Mantoux trung bình (mm) | 13,34 ± 7,8 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Về Nghề Nghiệp Và Trình Độ Văn Hóa Của Dân Cư Hai Xã
- Mối Liên Hệ Giữa Đường Kính Mantoux Và Năm Công Tác Của Cán Bộ Bệnh Viện Tâm Thần
- Kết Quả Xét Nghiệm Vi Khuẩn Lao Trong Các Mẫu Theo Thời Tiết
- Kết Quả Phát Hiện Vi Khuẩn Lao Trong Môi Trường Bệnh Viện
- Đánh Giá Hiệu Quả Của Một Số Biện Pháp Can Thiệp Kiểm Soát Lây Nhiễm Lao Trong Môi Trường Bệnh Viện Lao Và Bệnh Phổi Thái Bình.
- Thực trạng lây nhiễm lao ở Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Bình, một số giải pháp can thiệp - 14
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
*Có 13 người nghỉ hưu và chuyển công tác năm 2005
Để so sánh sự tăng giảm của đường kính Mantoux, chúng tôi chỉ phân tích kết quả của 56 nhân viên y tế được theo dõi đủ 3 lần.
Bảng 3.20 cho thấy đường kính Mantoux của các nhân viên y tế Bệnh viện lao có xu hướng tăng vào năm 2002 và giảm vào năm 2011.
Bảng 3.21. Đường kính phản ứng Mantoux của nhân viên y tế Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Bình năm 1998, 2002 và 2011 (*)
1998 | 2002 | 2011 | ||||
n | % | n | % | n | % | |
≥ 10 mm | 34 | 60,7 | 54 | 96,4 | 41 | 73,2 |
≥ 15 mm | 15 | 26,8 | 40 | 71,4 | 23 | 41,1 |
≥ 20 mm | 07 | 12,5 | 17 | 30,4 | 17 | 30,4 |
(*) Chỉ tính 56 trường hợp thử phản ứng Mantoux cả 3 năm.
Bảng 3.22 cho thấy đường kính trung bình của phản ứng Matoux của nhóm điều trị cao hơn nhóm hành chính, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.22. Đường kính trung bình phản ứng Mantoux của nhân viên y tế Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Bình theo tính chất công việc.
Nhóm điều trị | Nhóm hành chính | p | |
≥ 10 mm | 81,3 % | 71,4 % | > 0,05 |
< 10 mm | 18,7 % | 28,6 % | |
Trung bình | 10.72 ± 1.05 | 6.64 ± 1.27 | < 0,05 |
Biểu đồ 3.5: Sự thay đổi của đường kính Mantoux qua 3 lần thử của nhóm
điều trị (tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân)
Biểu đồ 3.5 cho thấy có sự thay đổi đáng kể về đường kính Mantoux của nhóm điều trị giữa năm 1998 và năm 2002 (p<0,05), giữa năm 1998 với năm 2011 (p< 0,05), tuy nhiên sự thay đổi về đường kính Mantoux giữa năm 2002 và năm 2011 của nhóm này chưa rõ ràng và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Biểu đồ 3.6: Sự thay đổi của đường kính Mantoux qua 3 lần thử của nhóm hành chính ( không tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân)
Biểu đồ 3.6 cho thấy có sự thay đổi đáng kể về đường kính Mantoux của nhóm tiếp xúc không trực tiếp giữa năm 1998 và năm 2002 (p<0,05), tuy nhiên sự thay đổi về đường kính Mantoux giữa năm 1998 với năm 2011 và giữa năm 2002 với năm 2011 của nhóm này chưa rõ ràng (p>0,05).
Biểu đồ 3.7: Sự thay đổi của đường kính Mantoux qua 3 lần thử của nhóm nghỉ hưu, chuyển công tác năm 2005
Biểu đồ 3.7 cho thấy đường kính Mantoux của nhóm này giữa năm 1998 và năm 2002 không có sự khác biệt, tuy nhiên đường kính Mantoux giữa năm 2002 và năm 2011 có sự khác biệt rõ ràng (p< 0,05)
Biểu đồ 3.8. Đường kính Mantoux giữa hai nhóm tiếp xúc gián tiếp với bệnh nhân và nhóm nghỉ hưu.
Biểu đồ 3.8 cho thấy đường kính matoux giữa hai nhóm này không có sự khác biệt (p>0,05).
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. THỰC TRẠNG LÂY NHIỄM LAO CỦA CÁN BỘ BỆNH VIỆN LAO VÀ BỆNH PHỔI THÁI BÌNH VÀ DÂN CƯ KHU VỰC XUNG QUANH BỆNH VIỆN
4.1.1. Thực trạng nhiễm lao của nhân viên y tế.
Để đảm bảo khả năng so sánh cao nhất giữa nhóm đối chứng Bệnh viện Tâm thần) và nhóm nghiên cứu (Bệnh viện Lao và Bệnh phổi), ngoài những yếu tố tương đồng về điều kiện địa lý, điều kiện làm việc hàng ngày và mức thu nhập, một số yếu tố khác liên quan đến nhiễm lao cũng phải tương đồng giữa hai nhóm. Kết quả phân tích cho thấy trong 5 yếu tố được khảo sát bao gồm tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, mức độ tiếp xúc với bệnh nhân thì không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê mặc dù tỷ lệ bác sỹ ở Bệnh viện Lao và Bệnh phổi cao hơn, trong khi tỷ lệ y tá ở Bệnh viện Tâm thần cao hơn. Điều này cho thấy, nhóm đối chứng có thể coi là tương thích để so sánh với nhóm nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu đã khẳng định có nguy cơ lây nhiễm lao thực sự ở nhóm nhân viên y tế Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thái Bình so với nhóm nhân viên y tế Bệnh viện Tâm thần. Tỷ lệ Mantoux dương tính ở nhóm cán bộ, nhân viên Bệnh viện Lao và Bệnh phổi cao hơn có ý nghĩa thống kê nhóm cán bộ, nhân viên Bệnh viện tâm thần, đồng thời đường kính cục phản ứng Mantoux trung bình cũng có sự khác biệt rõ rệt. Tuy nhiên nhân viên y tế cả hai bệnh viện tại thời điểm nghiên cứu đều chưa phát hiện được những triệu chứng nghi lao qua khám lâm sàng và hình ảnh tổn thương lao trên phim phổi.
Lưu Thị Liên và cộng sự (2007) tiến hành thử phản ứng Mantoux cho nhân viên y tế của một bệnh viện điều trị lao và một bệnh viện không điều trị lao ở Hà Nội, Việt Nam cho thấy tỷ lệ Mantoux dương tính của nhân viên y tế bệnh viện điều trị lao cao hơn rõ rệt [90].
Bệnh lao chủ yếu lây qua đường hô hấp, những người sống chung hoặc sống gần người mắc lao phổi có vi khuẩn trong đờm thì khả năng hít phải vi khuẩn lao của người bị bệnh thải ra ngoài không khí sẽ nhiều hơn những người khác, việc các nhân viên y tế của Bệnh viện Lao và Bệnh phổi hàng ngày khám bệnh, điều trị và chăm sóc bệnh nhân lao đã làm họ có nguy cơ nhiễm lao một cách rõ rệt. Càng làm việc lâu trong môi trường có nguồn lây trực tiếp là bệnh nhân lao ho khạc ra vi khuẩn thì khả năng nhiễm lao càng cao.
Một lần hắt xì hơi có thể tạo ra 40.000 giọt nước bọt bay vào không khí và bay hơi để tạo ra các hạt khí dung nhỏ hơn trong khoảng từ 0,5 đến 12um. Một lần ho có thể giải phóng ra 3.000 hạt khí dung và tương đương với nói chuyện trong 5 phút [54], khí dung chứa vi khuẩn sẽ có kích thước khoảng 0,3 đến 5um [135].
Do liều gây nhiễm lao rất nhỏ, chỉ một vi khuẩn lao đã có thể gây nhiễm nên hít vào bất kỳ một giọt khí dung chứa vi khuân lao nào cũng sẽ gây nhiễm vì vậy những giọt khí dung này đều có thể là nguồn lây lao mới. Những người tiếp xúc liên tục lâu dài với nguồn lây sẽ có nguy cơ nhiễm lao, ước tính với tỷ lệ nhiễm là khoảng 22%. Sự lây truyền chỉ có thể xẩy ra khi tiếp xúc với bệnh nhân lao tiến triển [54]. Ngoài ra còn các kiểu lây truyền khác như lây từ tiêu bản phổi giải phẫu tử thi chứng tỏ khả năng lây nhiễm lao khi tiếp xúc với tiêu bản tổ chức đã được cố định trong formaline[135].
Có sự thay đổi lớn hơn rõ rệt về kích thước của phản ứng Mantoux ở lần thử sau 4 năm, những nhân viên y tế công tác trên 5 năm trong môi trường
Bệnh viện Lao và Bệnh phổi có nguy cơ nhiễm lao cao hơn hẳn, mức độ của phản ứng Mantoux cũng tăng hơn. Tuy nhiên không thấy có sự khác biệt về kết quả Mantoux giữa hai nhóm trực tiếp khám bệnh, điều trị và chăm sóc bệnh nhân lao và làm các công việc hành chính không tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân, điều đó chứng tỏ việc tiếp xúc trực tiếp nhiều hay ít với bệnh nhân và vị trí công tác không liên quan đến kích thước của phản ứng Mantoux. Như vậy nguy cơ nhiễm lao của nhân viên y tế của Bệnh viện Lao và Bệnh phổi là giống nhau dù họ có làm việc ở vị trí nào. Trong thực tế, một nhân viên y tế làm việc tại khoa chống nhiễm khuẩn của Bệnh viện Lao và Bệnh phổi đã bị mắc lao phổi AFB(+) và được điều trị năm 2004.
Nghị định 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính Phủ [18] quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập đã nâng mức phụ cấp cho các công chức, viên chức trực tiếp thường xuyên, trực tiếp làm các công việc xét nghiệm, khám, điều trị, chăm sóc người bệnh HIV/AIDS, phong, lao, tâm thần từ 30% lên 70% và công chức, viên chức quản lý, phục vụ không trực tiếp làm chuyên môn y tế tại các cơ sở, viện, bệnh viện chuyên khoa, các trung tâm: HIV/AIDS, phong, lao, tâm thần, giải phẫu bệnh lý, pháp y từ 15% lên 30% so với Quyết định 276/2005/QĐ-TTG ngày 01/11/2005 đã thể hiện sự quan tâm, động viên kịp thời của Nhà nước đối với đội ngũ công chức, viên chức đang công tác trong ngành lao. Tuy nhiên do tính chất đặc thù về đường lây của bệnh lao nên chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với nhóm công chức, viên chức quản lý, phục vụ không trực tiếp làm chuyên môn y tế tại các cơ sở, viện, bệnh viện chuyên khoa, các trung tâm lao cần được xem xét ở mức cao hơn.
Trong một nghiên cứu, Dick Menzies M.D và cộng sự đưa ra nhận định nguy cơ mắc lao trong nhóm nhân viên y tế là rất cao ở thời đại chưa có