2. Tác động tiêu cực
Khi mở cửa thị trường bên cạnh những cơ hội và động lực để phát triển, sẽ tồn tại không ít những tác động tiêu cực cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến toàn xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực phân phối bán lẻ, một lĩnh vực khá nhạy cảm và có ảnh hưởng dây chuyền đến nhiều bộ phận dân cư trong xã hội.
2.1. Biến đổi trong tình trạng việc làm
Sự biến đổi trong tình trạng việc làm có thể được coi là một trong những mặt tác động đáng quan tâm nhất đối với Việt Nam khi mở cửa thị trường dịch vụ của mình theo các cam kết trong WTO. Với đặc điểm của một thị trường còn mang nặng tính truyền thống, hoạt động phân phối được thực hiện qua hệ thống các chợ truyền thống và cửa hàng nhỏ lẻ của tư nhân vẫn chiếm đa số... thì mối quan tâm này là hoàn toàn có cơ sở. Như đã trình bày ở các phần trên, sự cạnh tranh giữa khu vực các nhà phân phối chuyên nghiệp với các hộ kinh doanh cá thể là không cân sức. Trong khi các nhà phân phối chuyên nghiệp có khả năng để thay đổi phương thức kinh doanh cũng như mở rộng quy mô phân phối để đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng thì khu vực các hộ kinh doanh nhỏ lẻ không có điều kiện để làm được điều này.
Trong thời gian trước đây, khi nước ta chưa có những cam kết mở cửa dịch vụ phân phối bán lẻ, sự lấn át của những nhà phân phối chuyên nghiệp trong nước với khu vực các hộ kinh doanh nhỏ lẻ cũng vẫn sẽ diễn ra nhưng với tốc độ chậm hơn nhiều do họ không gặp phải áp lực mới về việc thay đổi phương thức kinh doanh cũng như củng cố hệ thống một cách để cạnh tranh một cách cấp bách. Tuy nhiên, hiện nay, trước sự nhận biết ngày càng rõ về nguy cơ phải đối đầu với các tập đoàn phân phối lớn
của nước ngoài sẽ sớm có mặt tại Việt Nam, các nhà phân phối chuyên nghiệp trong nước trong thời gian qua đã ngay lập tức có những phản ứng nhanh chóng để nâng cao sức cạnh tranh chuẩn bị đối đầu với các nhà phân phối nước ngoài. Và điều này tất yếu dẫn tới sự thu hẹp dần thị phần của khu vực các hộ kinh doanh cá thể. Kết quả là sẽ có những hộ kinh doanh bị đánh bật khỏi thị trường mà chưa kịp chuẩn bị để chuyển sang hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực khác. Về mặt xã hội, lượng lao động bị thất nghiệp do kết quả của tình trạng này sẽ là sức ép trực tiếp tạo ra cho các cơ quan nhà nước trong việc tạo việc làm mới. Nếu xét tới số lượng khoảng 900 nghìn hộ kinh doanh cá thể kiểu này ở Việt Nam và thời điểm mở cửa thị trường dịch vụ phân phối theo cam kết không còn xa thì rất có thể tác động này sẽ là không nhỏ.
Có thể bạn quan tâm!
-
Thị Trường Bán Lẻ Việt Nam Cần Được Phát Triển Hơn Phù Hợp Với Nhu Cầu Tiêu Dùng Của Người Dân
-
Tổng Mức Bán Lẻ Hàng Hóa Và Doanh Thu Dịch Vụ Tiêu Dùng Theo Các Khu Vực Kinh Tế Giai Đoạn 2002- 2005.
-
Mang Đến Những Phương Thức Quản Lý Và Trình Độ Tổ Chức Kinh Doanh Hiện Đại
-
Các Loại Hình Phân Phối Bán Lẻ Của Việt Nam Trong Giai Đoạn 2002 - 2005
-
Hỗ Trợ Các Doanh Nghiệp Sản Xuất Tiếp Cận Với Nguồn Vốn
-
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
2.2. Biến đổi trong tình trạng thu nhập của các nhóm đối tượng trong xã hội
Rõ ràng là sự biến đổi trong tình trạng việc làm sẽ kéo theo sự thay đổi trong tình trạng thu nhập của những nhóm đối tượng liên quan. Nhóm đối tượng có thể chịu nhiều tác động nhất từ việc mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam theo cam kết WTO là các hộ kinh doanh cá thể nhỏ lẻ phân bố rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước. Điều đáng lưu ý là những hộ kinh doanh này lại hầu hết thuộc về khu vực dân cư có thu nhập thấp trong xã hội. Vì vậy, một khi tình trạng thất nghiệp diễn ra, thu nhập bị giảm sút thì khoảng cách về thu nhập giữa nhóm đối tượng này với các nhóm đối tượng khác trong xã hội sẽ càng bị nới rộng. Khi đó, gánh nặng về giải quyết vấn đề an sinh xã hội và phân phối lại thu nhập của nhà nước sẽ càng nặng nề hơn.
Trước tình trạng mất việc làm và giảm sút trong thu nhập của các hộ kinh doanh nhỏ lẻ có thể còn tạo ra những tác động gián tiếp khác rất
đáng lưu ý như là khả năng gia tăng về tệ nạn xã hội, về tình trạng bỏ học... của các thành viên trong các hộ gia đình trước đây có thu nhập chủ yếu từ hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ này. Một đặc điểm dễ thấy và khá đặc trưng của các hộ kinh doanh nhỏ lẻ ở Việt Nam là mức thu nhập thấp và là nguồn duy nhất để bảo đảm cuộc sống cho các thành viên trong gia đình. Vì vậy, một tác động làm thay đổi tình trạng thu nhập từ cửa hàng cũng có thể ảnh hưởng tới nhiều thành viên khác trong gia đình đó. Hơn thế nữa, những thành viên trong các hộ gia đình này lại thường thuộc diện dễ bị tổn thương bởi những tác động từ bên ngoài do khả năng tự trang bị kiến thức và trình độ để đối phó với những thay đổi bên ngoài là không cao.
2.3. Các doanh nghiệp FDI tạo ra sự lũng đoạn thị trường
Việc thu hút số lượng lớn các khách hàng của các siêu thị và trung tâm thương mại có thể dẫn đến tình trạng phá sản dây chuyền của nhiều hộ cá thể buôn bán nhỏ lẻ. Vì thế các cơ sở sản xuất nhỏ thường phải phụ thuộc vào các tập đoàn phân phối. Sự phụ thuộc vào các tập đoàn phân phối nước ngoài cũng có thể phải trả một giá đắt vì ảnh hưởng chi phối của nó đến các nhà cung cấp nhỏ. Các siêu thị thường đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và chất lượng rất cao đối với người nông dân, nếu đáp ứng thì họ sẽ mua với khối lượng khổng lồ. Để đáp ứng được yêu cầu rất cao của các siêu thị, người nông dân phải đầu tư máy móc thiết bị, giống, phương pháp canh tác, nhưng họ lại không có vốn và phải đi vay ngân hàng, nếu các nhà phân phối nước ngoài không mua hàng, họ sẽ bị rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điều này không dễ dàng gì so với trước đó khi họ chỉ phải chuyển tất cả nông sản làm ra với các hình thức khác nhau tới các chợ. Đối với hàng gia dụng và trang trí là mặt hàng có thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, các tập đoàn phân phối nước
ngoài thường áp dụng mức giá cao trong các đơn đặt hàng các sản phẩm gia công đồng thời cũng đặt ra các quy định ngặt nghèo về thời hạn giao hàng, sử dụng lao động, nguồn nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ. Có đối tác lo đầu ra, các doanh nghiệp nhỏ chỉ phải tập trung sản xuất, không phải lo các khâu bao bì, thiết kế, marketing, xây dựng hệ thống phân phối và tạo dựng thương hiệu, nên hình thức liên kết này thu hút nhiều nhà sản xuất nhỏ, nhưng sau đó, phía nước ngoài càng giảm giá đặt hàng, các nhà sản xuất trong nước bị lỗ nặng. Tiền vốn đổi mới công nghệ theo yêu cầu của nhà phân phối hàng hóa nước ngoài lại là vay của ngân hàng, không bán được hàng nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Với vốn đầu tư lớn, mặt hàng kinh doanh rộng, hệ thống quản lý bán hàng, lưu kho, vận chuyển có tính ưu việt, các khâu Logistics được thực hiện với độ chuyên nghiệp cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước; các tập đoàn phân phối nước ngoài hàng hóa sẽ dần khống chế hệ thống phân phối hàng hóa nội địa.
Như vậy, rõ ràng là việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ sẽ cùng lúc tạo ra những tác động tích cực và tiêu cực không chỉ đối với sự phát triển của lĩnh vực này mà còn đối với sự phát triển trong nhiều mặt kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung. Mặc dù rất khó để có thể lượng hoá và so sánh được những lợi ích và tổn thất có thể tạo ra, song trên cơ sở xem xét những đặc điểm, tính chất cũng như xu hướng phát triển của thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam như đã trình bày ở những phần trên, có thể đưa ra nhận định chung là Việt Nam nhận được những lợi ích nhiều hơn là những thiệt hại đối với dòng vốn này.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG TỐT NHẤT DÒNG VỐN FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
I. THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC TỚI VIỆC THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
1. Thời cơ
1.1. Xu hướng đầu tư của thế giới
Xu thế toàn cầu hoá: Trên thế giới hiện nay toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng mà bản chất của nó là sự mở rộng thị trường theo các định chế song phương, khu vực và toàn cầu. Thông qua các cam kết về mở cửa thị trường mà sự phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia và đa quốc gia trong lĩnh vực phân phối ngày càng lớn mạnh. Sự hình thành nên các hãng phân phối lớn xuyên quốc gia và đa quốc gia có mạng lưới phủ khắp toàn cầu đã trở thành một thế lực mạnh, áp đặt cuộc chơi cho các nhà sản xuất. Trong lĩnh vực bán lẻ, xuất hiện sự thay thế các cửa hàng quy mô nhỏ, độc lập bằng những hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm…. Quy mô trung bình của các loại hình này ( diện tích, doanh số, lao động…) tăng lên, đồng thời mật độ của chúng ngày càng giảm xuống; ngày càng xuất hiện nhiều siêu thị, đại siêu thị, trung tâm thương mại có quy mô lớn, kinh doanh theo chuỗi. Đã có không ít các tập đoàn bán lẻ thực hiện hoạt động kinh doanh trên khắp thế giới. Tập đoàn Wal-Mart (Mỹ) có tới 7.343 cửa hàng trên 14 quốc gia, Carefour (Pháp) có 15.000 cửa hàng trên 30 nước. Như đã nói ở trên, cả hai tập đoàn này đã lên kế hoạch đầu tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam. Điều đó sẽ mang đến những tác động không nhỏ đến lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực phân phối bán lẻ nói riêng.
Xu hướng chuyển dịch FDI sang lĩnh vực dịch vụ: Vai trò của FDI trong khu vực dịch vụ khác với trong lĩnh vực chế tạo, với số lượng việc làm tạo ra ít hơn và giá trị gia tăng cũng ít hơn. Sáp nhân và thôn tính (M&A) là những hình thức thâm nhập thị trường nhanh nhất và thực tiễn nhất. Đặc biệt, trong các dịch vụ kinh doanh, các hình thức đầu tư phi cổ phần khá phổ biến - ủy thác đặc quyền, hợp đồng quản lý, quan hệ đối tác, xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT), xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO)…Sự tăng trưởng FDI vào lĩnh vực dịch vụ ngày càng được tiếp sức bởi sức ép cạnh tranh ở thị trường trong nước, dẫn đến việc các công ty xuyên quốc gia phải tìm kiếm thị trường mới để phát huy lợi thế cạnh tranh của họ. Sự tăng trưởng dòng FDI trong lĩnh vực dịch vụ kinh doanh vào các nền kinh tế đang phát triển trong tổng lượng vốn FDI từ 7% năm 1990 lên 38% năm 2002. Các công ty dịch vụ xuyên quốc gia chiếm tới 52% trong Top 100 công ty lớn nhất thế giới theo doanh thu năm 2003 và 52 công ty này đều có mức doanh số cao hơn GDP của Việt Nam. Các công ty này thậm chí còn vượt các nhà sản xuất hàng hóa về mặt doanh thu, lợi nhuận, tài sản và vốn tự có tính theo đầu công nhân. Sự chi phối của các dịch vụ tài chính đã giảm xuống, còn các dịch vụ máy tính, giải trí, sức khỏe và bán lẻ đã nổi lên chiếm ưu thế11.
Xu hướng chuyển dịch địa bàn đầu tư: Chi tiêu thương mại ở mỗi nước tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước đó. Theo như cách tính chỉ số chi tiêu thương mại (CCE) dựa trên 4 dữ liệu chính là lượng mua bán hàng hóa - dịch vụ giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất; doanh số bán buôn và bán lẻ các thành phẩm; một vài chi phí vốn kinh doanh và chi tiêu của Chính phủ cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ thì năm 2006thì các nước khu vực Châu á – Thái Bình Dương có bước nhảy vọt từ vị trí thứ 5 lên vị
11 MIP - UNDP, Services Sector Development: Akey to Viet Nam’s Sustainable Growth, 2005
trí khu vực có mức tiêu dùng lớn thứ 3 trong tổng số 6 khu vực trên thế giới đứng sau Châu Âu và Mỹ đạt mức 16,1%. Như vậy, có thể thẩy rằng tiêu dùng ở các nước Châu Á đang ngày càng gia tăng và đây là một trong những thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn phân phối hàng hóa lớn trên thế giới. Một đặc điểm chung của các nước Châu Á là hệ thống phân phối hàng hóa còn mang nặng tính sản xuất nhỏ, các cửa hàng bán lẻ kiểu gia đình, quy mô nhỏ, hình thức mua bán trên thị trường chủ yếu là các giao dịch ngẫu nhiên theo kiểu mua đứt bán đoạn. Hệ thống phân phối hàng nông sản chủ yếu qua các chợ và các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Điều này lại càng thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo quy mô lớn để thu hút lượng khách hàng phân tán trên thị trường. Tuy nhiên tại Châu Á, thời gian qua có một số nước bất ổn về tình hình chính trị do bạo loạn, khủng bố nên đã ảnh hưởng không ít đến hoạt động đầu tư. Hiện nay, Việt Nam đang được coi là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư thế giới vì tình hình chính trị ổn định, môi trường pháp lý cho các hoạt động đầu tư cũng đã tương đối hoàn chỉnh, cùng với việc nền kinh tế Trung Quốc phát triển quá nóng khiến các nhà đầu tư tìm hướng đầu tư vào Việt Nam càng tăng.
1.2. Xu hướng chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam
Trước hết, đó là xu hướng gia tăng nhanh chóng trong chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam. Trong những năm qua, sự gia tăng trong chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam luôn đạt tốc độ cao, hứa hẹn những tiềm năng rất lớn cho sự phát triển của thị trường phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê công bố mới đây thì mức chi tiêu cá nhân bình quân của người tiêu dùng Việt Nam năm 2004 là 378.000 đồng/tháng/người, cao gấp 2 lần so với mức chi tiêu của năm 2000. Hơn nữa trong quỹ tiêu dùng cuối cùng, mức bán lẻ hàng hóa tăng lên qua các năm. Nếu giai đoạn 1996-2000 thương mại bán lẻ hàng hóa chiếm 66,15% quỹ tiêu dùng
cuối cùng thì giai đoạn 2001-2005 tỉ lệ tương ứng là 76,74%. Dự báo giai đoạn 2006-2010, TMBLHH chiếm khoảng 80% Quỹ tiêu dùng cuối cùng.
Hơn nữa, tỉ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam đạt khoảng trên 70%, thuộc loại cao so với các nước trong khu vực như Singapore 57%, Malaysia 59%, Thái Lan 68%... cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự gia tăng mạnh trong tiêu dùng trong nước của Việt Nam.
Thứ hai là xu hướng thay đổi trong cách thức mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam. Sự thay đổi này diễn ra khá mạnh ở Việt Nam trong những năm qua và đang cho thấy xu hướng chuyển dịch mạnh từ việc mua sắm trong các khu chợ truyền thống sang các siêu thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Trong một cuộc điều tra mới đây được thực hiện ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có tới 70% người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và 20% ở Hà Nội cho rằng họ thích mua sắm ở các siêu thị hơn là ở các khu chợ truyền thống ngoài trời. Theo dự đoán, trong mười năm tới, con số này có thể tăng lên tương ứng là 90% ở Thành phố Hồ Chí Minh và 50% ở Hà Nội. Điều này cho thấy sự thay đổi khá nhanh và mạnh trong cách thức của người dân Việt Nam đối với việc mua sắm hàng hoá.
1.3. Cam kết và việc thực hiện cam kết
Nhận thức được xu thế khách quan của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sau khi hệ thống XHCN tan rã (1991), trong gần 20 năm qua, Đảng và Chính phủ đã nhất quán trong việc thực hiện phương châm hội nhập kinh tế quốc tế với mức độ ngày càng sâu hơn và chủ động hơn. Để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả và chủ động, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, kết hợp đàm phán thương mại để gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế với cải cách trong nước.