Các Nguyên Tắc Quyết Định Áp Dụng Hình Phạt (Quyết Định Hình Phạt)

Việc xét xử của Toà án phải bảo đảm khách quan, toàn diện và đầy đủ nhằm xác định sự thật của vụ án, làm rõ những chứng cứ khẳng định có tội và chứng cứ khẳng định vô tội, xác định những tình tiết tăng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị cáo.

Xác định sự thật của vụ án khách quan là xét xử một cách vô tư, không định kiến, suy diễn mà phải dựa vào các chứng cứ có tính thuyết phục và đánh giá, đối chiếu theo qui định của pháp luật.

Việc xét xử của Toà án có nội dung thẩm tra lại tính chính xác, hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát thu thập để xác định sự thật của vụ án, chứng minh cho việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội và mức độ trách nhiệm của bị cáo.

Xác định sự thật của vụ án một cách toàn diện là tiến hành xem xét hành vi phạm tội trên tất cả các mặt, các yếu tố của cấu thành tội phạm trong một tổng thể, kiểm tra tất cả mọi tình tiết liên quan đến vụ án.

Xác định sự thật của vụ án một cách đầy đủ là làm sáng tỏ mọi tình tiết có ý nghĩa và cần thiết cho việc khẳng định có tội hay không có tội, tội đó được qui định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Có nghĩa là Toà án phải thực hiện việc chứng minh mà cụ thể là "thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và căn cứ của việc kết luận trong vụ án hình sự [13,61]. Để làm được điều đó: "Đòi hỏi Toà án phải công bằng trong đối xử (quan hệ) với các bên đối lập nhau, và trong đó loại bỏ hoàn toàn những việc có thể bình luận như là lời buộc tội" [56,63] Nếu việc điều tra không đầy đủ thì Toà án phải trả hồ sơ, yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm điều tra bổ sung.

Các yêu cầu về xem xét vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ là vô cùng quan trọng và rất cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Các yêu cầu này bảo đảm cho việc không bỏ lọt tội phạm, và đặc biệt là không làm oan người vô tội.

- Một trong những bảo đảm về mặt pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo là những người tiến hành tố tụng phải vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Điều 14 BLTTHS qui định: "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, điều tra viên, thư ký phiên toà, người phiên dịch, người giám định không được tiến hành hoặc tham

gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình". Điều này cũng nhằm tạo cho việc xác định sự thật của vụ án, tránh thiên vị, thiếu khách quan trong xét xử.

Để đề phòng những người nói trên có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ, pháp luật qui định những trường hợp yêu cầu tự họ phải từ chối tham gia tố tụng. Các trường hợp đó được qui định tại các điều 28, 29, 30, 31, 32, 33 và 44, 45 BLTTHS. Bên cạnh đó, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng.

- Nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và các bên có liên quan, pháp luật qui định trình tự, thủ tục xét xử theo các cấp khác nhau. Đây cũng là bảo đảm về mặt pháp lý quan trọng cho việc áp dụng pháp luật trong xét xử được thống nhất, đồng thời là việc nghiêm chỉnh thực hiện quyền khiếu cáo, khiếu nại của bị cáo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

Sau khi vụ án được xét xử theo trình tự sơ thẩm, nếu thấy rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình chưa được bảo đảm thì bị cáo có quyền kháng cáo yêu cầu xem xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Và khi có kháng cáo (hoặc kháng nghị) thì Toà án cấp trên trực tiếp xét lại các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Toà án có nhiệm vụ thẩm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm và khắc phục, sửa chữa những sai sót của Toà án đã xét xử sơ thẩm.

Ngoài việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, pháp luật còn qui định xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm v.v... Đây là những thủ tục đặc biệt nhằm sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xét xử gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - 7

Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật trong việc giải quyết án.

Tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì bản án, quyết định đó Toà án xử lý không đúng do có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đó.

Qua việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nếu thấy rằng còn có những thiếu sót trong việc định tội danh, áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, quyết định hình phạt chưa chính xác, Toà an phải khắc phục, sửa chữa theo quy định của pháp luật; quyền lợi ích của bị cáo bị vi phạm được khôi phục lại, trong đó có việc giảm nhẹ mức hình phạt và tuyên vô tội đối với bị cáo (hoặc bị án).

Pháp luật qui định cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thường cho người bị oan (Điều 24 BLTTHS).

Song trách nhiệm đối với cơ quan cá nhân đã làm oan đó chưa được đặt ra một cách thật cụ thể. Tuy nhiên trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp do Bộ luật hình sự mới qui định là rõ ràng và nghiêm khắc hơn nhiều so với Bộ luật hình sự trước đây.

Ngoài các nguyên tắc trên đây, pháp luật còn qui định một số các nguyên tắc khác như: bảo đảm việc tham gia tố tụng của các tổ chức xã hội, công dân, phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động xét xử của Toà án.

Các nguyên tắc đó là một chỉnh thể nhằm tạo cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời cũng là nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân của bị cáo không bị tước bỏ trái pháp luật từ phía bất cứ cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào.

Như Gorelic A.X đã nói: "Trong Nhà nước pháp quyền vẫn có việc phạm tội của các công dân này chống các công dân khác hoặc là các công dân chống Nhà nước, nhưng một Nhà nước không thể coi là Nhà nước pháp quyền khi chính nó hoặc qua những người đại diện có thẩm quyền của nó thực hiện những tội xâm phạm các quyền cơ bản của con người" [23, 77].

2.2.2 Các nguyên tắc quyết định áp dụng hình phạt (quyết định hình phạt)


Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân của bị cáo không chỉ xuyên suốt trong hoạt động lập pháp với việc quy định tội phạm, hình phạt, các trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bên tiến hành và tham gia tố tụng mà còn xuyên suốt trong quá trình áp dụng pháp luật mà thể hiện rõ nét trong đó là việc quyết định áp dụng hình phạt.

Nếu như xét xử là khâu trung tâm của quá trình tố tụng thì quyết định hình phạt là khâu trung tâm của quá trình xét xử. Việc quyết định hình phạt có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của bị cáo. Cho nên, quyết định hình phạt đúng mới có tác dụng phòng ngừa chung. Và ngược lại, quyết định hình phạt sai thì đối với bị cáo tâm không phục, khẩu không phục, còn xã hội thì lên án, không tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp luật. Do đó, để tạo cơ sở cho việc quyết định hình phạt được đúng đắn, Toà án phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định theo qui định của pháp luật.

2.2.2.1. Nguyên tắc pháp chế.


Khi áp dụng hình phạt, Toà án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật. Các qui định đó là một hệ thống các bảo đảm về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo.

Để có được hình phạt đúng, trước hết Toà án phải định tội danh đúng. Muốn định tội danh đúng phải xác định đúng đắn, khách quan các tình tiết của vụ án xảy ra trong thực tế, nắm vững nội dung của các qui phạm pháp luật, đối chiếu, so sánh chính xác, đầy đủ các dấu hiệu hành vi phạm tội đã xảy ra với các dấu hiệu được qui định trong qui phạm pháp luật, xác minh lại trong quá trình xét xử để kết luận bị cáo phạm tội này hay phạm tội khác. Như vậy, không có các dấu hiệu được qui định trong luật hình sự thì bất cứ hành vi nào cho dù có nguy hiểm cho xã hội xảy ra trong thực tế cũng không được coi là tội phạm. Chẳng hạn, trước đây hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp vẫn không được coi là phạm tội. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật hình sự trong khi định tội danh là điều kiện cơ bản nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo. Vì "định tội danh đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với người phạm tội " [73,147].

Nếu định tội danh sai, tất yếu sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt sai, áp dụng sai việc miễn trách nhiệm hình sự, đặc xá, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án tích, làm cho bị cáo phải gánh chịu hậu quả không đáng phải gánh chịu, không phù hợp với hành vi họ đã thực hiện. Hoặc cũng có thể định tội danh sai làm cho người đáng lẽ phải chịu hình

phạt nặng hơn nhưng lại được hưởng hình phạt nhẹ hơn. Điều này vi phạm đến nguyên tắc công bằng, làm tổn hại đến các lợi ích được luật hình sự bảo vệ.

Khi xem xét quyết định hình phạt, phải tuyệt đối tuân thủ các qui định của pháp luật. Chẳng hạn như căn cứ vào các qui định về: cấu thành tội phạm, phạm vi áp dụng của Bộ luật hình sự, vụ kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình trạng không có trách nhiệm hình sự, các qui định đối với người chưa thành niên phạm tội, tổng hợp, hình phạt, ... và căn cứ vào chế tài của điều luật qui định tội phạm mà bị cáo đã thực hiện.

Khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo, Toà án phải căn cứ vào điều luật để xác định tội danh, xác định loại hình phạt cần được áp dụng rồi quyết định mức hình phạt cụ thể dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện, các đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Việc quyết định hình phạt phải được viện dẫn bằng các khoản, điều luật cụ thể. Có nghĩa là Toà án chỉ được tuyên những hình phạt được qui định trong Bộ luật hình sự.

Việc quyết định hình phạt đòi hỏi phải có đầy đủ các căn cứ, lý do. Các căn cứ, lý do đó là những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trong thực tế, phù hợp với các qui định của pháp luật, mang đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể và các tình tiết khác đã được Hội đồng xét xử kiểm tra đánh giá, nhận xét tại phiên toà.

Nguyên tắc pháp chế còn thể hiện ở chỗ, trong các phương án giải quyết khác nhau mà luật cho phép, đòi hỏi Toà án phải cân nhắc lựa chọn một loại và mức hình phạt hợp lý, có nghĩa là đúng pháp luật, phù hợp với các tình tiết cụ thể của vụ án, với các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Bởi vì những người khác nhau, cho dù phạm tội giống nhau nhưng mức hình phạt áp dụng đối với họ không thể như nhau.


2.2.2.2. Nguyên tắc nhân đạo.


Hình phạt thể hiện thái độ phản ứng của Nhà nước, của xã hội đối với tội phạm và người phạm tội. Việc quyết định hình phạt đòi hỏi Toà án phải cân nhắc và có thái độ đúng đắn với quyền, lợi ích của người phạm tội và của Nhà nước, của xã hội trong một tổng thể thống nhất, hài hoà, biện chứng. Bởi vì pháp luật sẽ mất đi tính nhân đạo của nó nếu quá đề

cao hình phạt, quá đề cao lợi ích của Nhà nước, của xã hội mà coi thường quyền con người của bị cáo.

Khẳng định tầm quan trọng của vấn đề này, Bộ luật qui định chỉ có 14 tình tiết đã được pháp luật qui định mới được coi là tình tiết tăng nặng. Đồng thời trong số các tình tiết đó, những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

Bên cạnh đó thì, ngoài 18 tình tiết giảm nhẹ được Bộ luật hình sự qui định, khi quyết định hình phạt, Toà án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ. Khi có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã qui định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Chính sách nhân đạo được thể hiện tập trung ở nguyên tắc xử lý (Điều 3 BLHS), là nguyên tắc quán xuyến toàn bộ quá trình xem xét tội trạng và áp dụng pháp luật đối với người phạm tội.

Việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội không nhằm gây đau đớn về thể xác và hạ thấp danh dự, nhân phẩm của họ.

Có thể khẳng định rằng quá trình xây dựng và áp dụng ở Việt Nam là quá trình phấn đấu, hoàn thiện đường lối chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đường lối chính sách, pháp luật đó thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin: "Sự tàn nhẫn không đếm xỉa tới bất kỳ sự khác biệt nào, làm cho sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vô hiệu, bởi vì sự tàn nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là kết quả của pháp luật" [20,179].

2.2.2.3. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt.


Hình phạt chỉ được áp dụng cho thể nhân - con người cụ thể. Mà con người thì có những đặc điểm, tính cách, điều kiện, hoàn cảnh... khác nhau cho nên, bất luận trong trường hợp nào không thể đem hình phạt giống nhau áp dụng cho các con người khác nhau. Đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Toà án phải cân nhắc tất cả các tình tiết có liên quan đến vụ án và có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Pháp luật qui định các giai đoạn phạm tội, các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội, các tội phạm, các loại và mức hình phạt... khác nhau nhằm tạo điều kiện cho Toà án thực hiện việc cá thể hoá hình phạt. Cụ thể hơn pháp luật qui định các loại hình phạt, khung hình phạt, cho phép Toà án tuỳ theo trường hợp cụ thể mà lựa chọn hình phạt này hay hình phạt khác, mức độ này hay mức độ khác cho phù hợp nhất để áp dụng đối với bị cáo.

2.2.2.4. Nguyên tắc công bằng.


Để bảo đảm quyền con người của bị cáo thì việc quyết định hình phạt phải đúng pháp luật, phải tương xứng với tội phạm đã xảy ra và phải phù hợp với những đặc điểm pháp lý của nhân thân người phạm tội. Hay có thể nói gọn hơn là quyết định phạt phải bảo đảm tính nguyên tắc công bằng, không được quá nhẹ hoặc quá nặng.

Nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi quyết định hình phạt phải bảo đảm sự tương xứng của hình phạt được tuyên với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, với các đặc điểm pháp lý của nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trước hết, quyết định hình phạt phải tương xứng với tội phạm, tức là tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện.

Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm phụ thuộc vào:


- Tầm quan trọng của khách thể - các quan hệ xã hội mà tội phạm xâm hại tới.


- Các yếu tố về chủ thể, mặt chủ quan, khách thể, mặt khách quan của tội phạm.


Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm phụ thuộc vào giá trị của các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. "Tính chất" và "mức độ" nguy hiểm cho xã hội là hai mặt của một vấn đề, không thể tách rời nhau. Không thể không có mặt này mà có mặt kia được.

Do đó, pháp luật qui định là, khi quyết định hình phạt, Toà án phải cân nhắc, xác định cả tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm đó phải được dựa trên cơ sở phân tích tổng thể các tình tiết của tội phạm đã xảy ra trên thực tế, các đặc điểm pháp lý của nhân thân người phạm tội. Chẳng

hạn như các tình tiết về thời gian, không gian, hoàn cảnh, địa điểm nơi xảy ra tội phạm, phương pháp, phương tiện thực hiện tội phạm.... Trong một chừng mực nhất định, các tình tiết đó có ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm do đó tất yếu ảnh hưởng đến mức độ nghiêm khắc của hình phạt được áp dụng.

Như trên đã nêu, mức độ thiệt hại hay hậu quả do tội phạm gây ra là một trong những căn cứ để xem xét quyết định hình phạt. Cho dù hậu quả đó được qui định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm hay là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì đều có ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt nặng hay nhẹ.

Khi quyết định hình phạt, để bảo đảm công bằng đòi hỏi phải xem xét đến mặt chủ quan của tội phạm. Bởi vì cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, các loại, hình thức, và mức độ lỗi có mức độ nguy hiểm cho xã hội không giống nhau.

Trong các điều kiện khác giống nhau, thì tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý nguy hiểm hơn so với tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý (trong đó lỗi do cố ý trực tiếp nguy hiểm hơn lỗi do cố ý gián tiếp và lỗi do vô ý vì tự tin nguy hiểm hơn lỗi do vô ý vì cẩu thả). Chính vì điều đó mà Điều 9, Điều 10 Bộ luật hình sự được chia thành các khoản khác nhau phù hợp với các hình thức lỗi khác nhau (Bộ luật hình sự trước đây, tại Điều 9 "Cố ý phạm tội" không chia khoản) giúp cho việc đánh giá chính xác hơn tính chất và mức độ, nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, từ đó tạo cho việc quyết định hình phạt được đúng đắn hơn.

Tuy nhiên, trong cùng một loại hình thức lỗi cũng có các mức độ nguy hiểm khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm pháp lý của nhân thân người phạm tội, thái độ tâm lý của họ, động cơ, mục đích phạm tội của họ. Đồng thời, các nguyên nhân hoàn cảnh, điều kiện phạm tội cũng là những yếu tố chi phối mức độ lỗi của người phạm tội nên phải được xem xét để quyết định hình phạt.

Thực tiễn xét xử thấy rằng, việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm còn gặp không ít những khó khăn vì chưa có được những quy định mang tính định lượng cụ thể. Do đó, có những trường hợp, các bị cáo phạm cùng một tội, các tình tiết của vụ án, cũng như đặc điểm pháp lý nhân thân của họ không khác biệt nhau đáng kể,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022