Quy Định Hệ Thống Chế Tài Đối Với Các Cấu Thành Tội Phạm

Hình phạt bổ sung là hình phạt không thể tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm theo hình phạt chính. Hình phạt bổ sung không được áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính); trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính). Ngoài các hình phạt trên, Toà án không được áp dụng bất cứ hình phạt nào khác.

Hệ thống hình phạt nước ta đa dạng, có các mức độ khác nhau thể hiện đường lối của Nhà nước là kết hợp giữa giáo dục thuyết phục và cưỡng chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời là cơ sở cho việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự.

Ngoài việc quy định nội dung của từng hình phạt, luật hình sự còn quy định hình phạt nào thì được áp dụng với loại tội phạm nào. Chẳng hạn, cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức miễn hình phạt; phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác.

Đồng thời, Luật cũng quy định những trường hợp nào thì được áp dụng hình phạt nào, hình phạt nào không được áp dụng đối với đối tượng nào. Chẳng hạn, Điều 30 BLHS quy định khi nào áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, khi nào là hình phạt bổ sung; phạt tử hình không được áp dụng đối với người chưa thành niên, phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi; không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên (đủ 14 tuổi đến 16 tuổi) phạm tội. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Nếu người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội mà điều luật được áp dụng quy định phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt được áp dụng cao nhất không quá 12 năm tù (trước đây là 15 năm); còn đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức hình phạt được áp dụng không quá 18 năm tù (trước đây 20 năm tù).

Ngoài việc quy định các loại hình phạt với các mức độ nghiêm khắc khác nhau, luật hình sự còn quy định rõ các mức thời gian tối thiểu và mức thời gian tối đa đối với hình phạt tù, cải tạo không giam giữ.

Trước đây, luật hình sự quy định hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 2 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (Điều 24 BLHS 1985). Hiện nay, Bộ luật hình sự quy định loại hình phạt này được áp dụng từ 6 tháng đến 3 năm không chỉ đối với người phạm tội ít nghiêm trọng mà cả đối với người phạm tội nghiêm trọng (Điều 31 BLHS 1999).

Như vậy, phạm vi áp dụng hình phạt này được mở rộng hơn, tránh khuynh hướng nặng về hình phạt tù. Hình phạt tù có thời hạn là từ 3 tháng đến 20 năm (Điều 33). Hình phạt tử hình, Bộ luật hình sự trước đây quy định tại 44 điều nhưng nay chỉ còn quy định tại 29 điều luật. "Việc Toà án áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đúng pháp luật kể cả hình phạt chung thân, tử hình đối với một số người phạm tội thuộc những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng ... xâm phạm tính mạng, tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân (giết người, giết người cướp tài sản công dân, hiếp dâm trẻ em) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân" [28,6]. Việc quy định hình phạt tử hình là cần thiết, nhưng hiện nay phạm vi áp dụng hình phạt này đã được thu hẹp đáng kể, chỉ còn áp dụng đối với một số trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Điều này thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước, coi trọng quyền sống của con người. Hơn nữa, "trên thực tế, tính chất nghiêm minh và chức năng răn đe, giáo dục, phòng ngừa của pháp luật nói chung và hình phạt nói riêng chủ yếu phụ thuộc vào việc thực thi pháp luật chứ không phải ở việc quy định hình phạt thật nặng" [41,40].

Việc quy định thời hạn tối thiểu (3 tháng) và thời hạn tối đa (20 năm trong trường hợp phạm một tội và 30 năm trong trường hợp phạm tội nhiều tội) của hình phạt tù là tạo điều kiện cho việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự, mở rộng khả năng lựa chọn một hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, phù hợp với những đặc điểm nhân thân người phạm tội. Song trên thực tế, với điều kiện cải tạo hiện nay thì mức hình phạt 3 tháng tù giam sẽ khó có khả năng giáo dục người phạm tội trở thành "người có ích cho xã hội". Hơn nữa, quy định như vậy cũng có thể là kẽ hở cho các cơ quan tiến hành tố tụng hợp pháp hoá việc tạm giữ, tạm giam sai pháp luật bằng việc tuyên phạt bị cáo 3 tháng tù giam để trừ vào thời gian người phạm tội đã bị tạm giữ, tạm giam.

Bên cạnh đó, việc quy định mức tối đa của hình phạt tù đối với trường hợp phạm nhiều tội là 30 năm là phù hợp với lý luận về sự công bằng nhưng chưa thật sự hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Bởi lẽ, thứ nhất: "hàng năm số bị cáo bị phạt tù chung thân chiếm một tỷ lệ khá cao. Thế nhưng qua thực tế không có trường hợp nào người bị phạt tù chung thân chấp hành phạt quá 20 năm" [64,38]; thứ hai: mức án 30 năm không phải là biện pháp hữu hiệu để "trừng trị" và "giáo dục" người phạm nhiều tội như mục đích của hình phạt đặt ra. Bởi vì, không hẳn là việc áp dụng hình phạt tù lâu tới mức 30 năm mới đủ độ để giáo dục, cải tạo người phạm nhiều tội.

Trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự, hình phạt tù vẫn chiếm ưu thế. Trong khi đó, các hình phạt không phải là tù chưa thực sự có vị trí cân xứng với hình phạt tù "Sự quá nghiêng về hình phạt tù trong luật hình sự nước ta dẫn đến mất cân đối trong hệ thống hình phạt giữa hình phạt tù và các hình phạt không phải tù, khó đảm bảo tính thống nhất nội tại giữa tội phạm và hình phạt; dẫn đến tình trạng áp dụng hình phạt tù phổ biến trong thực tiễn xét xử" [70,27]. Do vậy, có "thực tế đáng lo ngại là đối với một số người phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý, có nhân thân tốt đáng lẽ và cần phải được cải tạo, giáo dục trong môi trường sống và công tác của mình mà không cần tách ly khỏi xã hội thì Toà án lại quyết định hình phạt tù với thời hạn ngắn" [73,124]. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến quyền, lợi ích của người phạm tội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

Như vậy, đến nay lời dạy của Lê Nin vẫn còn nguyên giá trị, "tác dụng ngăn ngừa của hình phạt hoàn toàn không phải hình phạt đó nặng mà ở chỗ là đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt. Điều quan trọng không phải ở chỗ là tội phạm phải trừng phạt nặng mà ở chỗ không một tội phạm nào không bị phát hiện ra" [39,120]. Vì lẽ đó, khuynh hướng tăng nặng hình phạt để nhằm đạt mục đích của hình phạt là không thuyết phục. Bởi vì: "người ta thường nói đến sự nghiêm trị, nhất là trong những trường hợp tệ nạn xã hội phát triển tràn lan và hậu quả quá tai hại. Điều này đúng vì trị một người để cứu muôn người". Nhưng nếu xét sâu xa nguồn gốc của tệ nạn xã hội thì đó không phải là một giải pháp duy nhất hữu hiệu bởi đó chỉ là "trị đằng ngọn chứ không phải trị đằng gốc". Kinh nghiệm ở một số nước cho thấy sự nghiêm trị đã không ngăn chặn được một cách hiệu quả các tệ nạn này [59,3].

2.1.4. Quy định hệ thống chế tài đối với các cấu thành tội phạm

Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - 5


Việc quy định các loại tội phạm khác nhau, các biện pháp hình phạt khác nhau tạo cơ sở để định ra các mức độ nghiêm khắc khác nhau trong hệ thống chế tài của luật hình sự. Các mức độ đó là tiền đề quan trọng để Toà án áp dụng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Và do đó, chế tài là yếu tố cụ thể, trực tiếp tác động đến quyền con người của bị cáo. Vì lẽ đó, việc xây dựng hệ thống chế tài đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc tương xứng giữa mức độ nghiệm trọng của tội phạm và mức độ nghiêm khắc của chế tài, đồng thời phải bảo đảm tương xứng và hợp lý giữa các tội trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Bởi vì, như Mác viết "Nếu như khái niệm phạm tội giả định phải có sự trừng phạt, thì tội phạm thực tế lại giả định phải có một mức độ trừng phạt nhất định. Tội phạm thực tế là có giới hạn. Vì vậy, cả sự trừng phạt cũng phải có giới hạn, dẫu chỉ là để cho nó có tính chất thực tế - nó phải được hạn chế bởi nguyên tắc của pháp luật để trở thành hợp pháp. Vấn đề là ở chỗ làm cho sự trừng phạt trở thành hậu quả thực tế của việc phạm tội. Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi của người đó, do đó phải là hành vi của chính người đó. Giới hạn của hành vi của y phải là giới hạn của sự trừng phạt" [42, 181].

Để mức độ nghiêm khắc của hình phạt được biểu hiện bằng các chế tài cụ thể tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm, không thể không tính đến năng lực trách nhiệm hình sự, lứa tuổi, các hình thức lỗi, động cơ, mục đích... của người phạm tội. Vì không như vậy thì quyền con người của họ sẽ không được bảo đảm. Điều này được thể hiện rõ nét trong luật hình sự Việt Nam; chẳng hạn đối với người chưa thành niên trong các độ tuổi khác nhau có các mức hình phạt khác nhau, tội giết người với tội vô ý làm chết người có mức hình phạt khác nhau...

Việc quy định chế tài còn căn cứ vào tính chất, giá trị, ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của các quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất của hành vi và hậu quả do tội phạm gây ra. Chẳng hạn hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác (Điều 104 BLHS) nghiêm khắc hơn so với hình phạt đối với tội gây rối trật tự công cộng (Điều 245 BLHS); hoặc giết người không vì các động cơ, mục đích.... được quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS thì thuộc khoản 2 có mức hình phạt ít nghiêm khắc hơn,

hoặc người phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng bao giờ cũng chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn trường hợp tương tự nhưng không có tình tiết đó.

Đối với các tội phạm về sở hữu, về kinh tế, luật hình sự quy định việc định lượng giá trị để làm cơ sở phân biệt tội phạm với vi phạm hành chính, đồng thời cũng là cơ sở để quy định các chế tài cho tương xứng với các mức độ nghiêm khắc khác nhau của tội phạm, tránh tình trạng xử lý tuỳ tiện. Chẳng hạn thông thường người nào có hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm. Tuy nhiên trường hợp chiếm đoạt dưới 500.000 đồng cũng cấu thành tội phạm trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc chưa được xóa án tích về hành vi chiếm đoạt (Điều 137, 138, 139 BLHS) và chẳng hạn, Điều 154 Bộ luật hình sự quy định các mức hình phạt khác nhau tương ứng với số lượng hàng hoá, tiền tệ do người phạm tội vận chuyển qua biên giới nhiều hay ít. Bộ luật hình sự hiện nay quy định hình phạt tiền vừa là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung nhưng phần lớn là hình phạt bổ sung. Do đó, Bộ luật chưa thể hiện đúng vai trò của hình phạt tiền. Bên cạnh đó, khoảng cách tối thiểu và tối đa của hình phạt này còn quá rộng (từ 10 đến 100 triệu đồng: khoản 4 Điều 153, khoản 1 Điều 158...; từ 5 đến 50 triệu đồng: khoản 1 Điều 155, khoản 1, Điều 159); dẫn đến việc dễ tuỳ tiện khi áp dụng.

Để tránh được việc xâm hại quyền con người của người phạm tội - bị cáo thì việc xây dựng và áp dụng chế tài đối với họ đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, có nghĩa là chế tài "không chỉ phù hợp nghiêm khắc với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội được mô tả trong luật, có phân hoá cao mà còn phải cân xứng với các chế tài quy định đối với việc thực hiện các tội phạm khác" [38;9,10].

Một mặt, vì tính không đồng loại của các hành vi phạm tội, mặt khác để tạo cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự nên trong luật hình sự nước ta tất cả chế tài được quy định trong phần các tội phạm được xây dựng theo kiểu tuỳ nghi lựa chọn đối với chế tài quy định hình phạt chính. Ví dụ, lựa chọn giữa hình phạt tù có thời hạn với tù chung thân hoặc tử hình (khoản 1 Điều 84 BLHS); cảnh cáo hoặc phạt tiền với cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn (khoản 1 Điều 161 BLHS).

Về hình phạt tù, chế tài quy định mức tối thiểu và mức tối đa, tạo cho Toà án khả năng lựa chọn một hình phạt tương xứng áp dụng đối với người phạm tội. Nhưng mặt khác, khoảng cách quá xa giữa mức tối thiểu và mức tối đa trong từng khung hình phạt (từ 5 năm đến 15 năm: khoản 2 Điều 80, khoản 2 Điều 81...; từ 12 đến 20 năm , chung thân hoặc tử hình....) cũng tạo ra cơ sở cho sự tuỳ tiện, hay "chạy chọt", không thống nhất trong áp dụng hình phạt. Trong khi đó, hình phạt hiện nay cần có những căn cứ pháp luật đảm bảo phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt nhằm góp phần thiết lập, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

Như vậy, để đảm bảo quyền con người, quyền công dân của người phạm tội, đòi hỏi phải xây dựng được hệ thống chế tài công bằng, tạo cho Toà án khả năng cá thể hoá hình phạt. Từ đó đặt ra vấn đề quan trọng là "cần tìm ra một sự tương quan tối ưu giữa các giới hạn có tính nguyên tắc của hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật hình sự với giới hạn ở đó luật giao cho các cơ quan đó thẩm quyền độc lập ra quyết định. Vấn đề về sự kết hợp giới hạn của luật và giới hạn của sự phán xét độc lập tương đối của Toà án có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết những vấn đề trách nhiệm và hình phạt đối với người có lỗi" [22,93].

Có thể khẳng định rằng, sự thể hiện tập trung của công bằng là ở luật. Cho nên, nếu luật quy định trách nhiệm hình sự, tội phạm, hệ thống hình phạt, hệ thống chế tài càng rõ ràng, cụ thể, thì công bằng, dân chủ, nhân đạo, pháp chế càng được bảo đảm. Nhưng trong thực tiễn thì những quy phạm có đầy đủ đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không bao hàm hết được những tình tiết của tội phạm, cũng như không thể tạo dựng hết được những "khuôn mẫu" cho việc áp dụng các biện pháp trách nhiệm được tương xứng với tội phạm. Do đó, phải có sự phán xét của Toà án và như vậy, sự phán xét (xét xử) với quyết định của Toà án có quan hệ trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân của bị cáo. Cho nên, những hành vi phạm tội trong lĩnh vực này cần phải có hình phạt thích hợp. Vì vậy, Bộ luật hình sự hiện nay quy định chế tài đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà đặc biệt là do cán bộ tư pháp thực hiện nghiêm khắc hơn nhiều so với quy định trước đây. Chẳng hạn, tội ra bản án trái pháp luật quy định mức hình phạt cao nhất là 15 năm (thay vì 7 năm theo luật trước đây) và không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với tội này. Đồng thời, tội bức cung trước đây chỉ quy định đối với người (nào) tiến hành điều tra, hiện nay mở rộng cả

đối tượng là người (nào) tiến hành truy tố, xét xử nữa và mức hình phạt cao nhất đối với tội này là 15 năm (trước đây 5 năm).

2.2 Quy định về xét xử hình sự với việc bảo đảm quyền con người đối với bị cáo


2.2.1. Các nguyên tắc xét xử


Theo giáo sư luật học - Viện hàn lâm pháp luật Nhà nước Matxcơva I.A.Đmitriep thì "xét xử là hình thức thực hiện chức năng Nhà nước đặc biệt của cơ quan tư pháp riêng có của Toà án mà kết thúc bằng việc ra bản án hoặc quyết định bắt buộc thực hiện đối với tất cả những người có liên quan" [16,48]. Các bản án, quyết định đó tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích của con người. Do đó, để bảo đảm quyền con người, quyền công dân của bị cáo thì ngoài việc quy định cơ sở trách nhiệm hình sự, hệ thống hình phạt, hệ thống chế tài... đúng đắn còn phải tạo cho hoạt động xét xử án hình sự hay cụ thể hơn là áp dụng pháp luật được nghiêm minh, chính xác. Vì nếu pháp luật được xây dựng đúng đắn mà việc áp dụng nó (thông qua xét xử) sai lệch thì mục đích của pháp luật chẳng những không đạt được mà các quan hệ xã hội (trong đó có quyền con người) được nó bảo vệ còn bị vi phạm thô bạo, nhân dân thiếu tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp luật. Do vậy, pháp luật quy định các nguyên tắc như là những tư tưởng chỉ đạo, tư tưởng xuất phát, hướng cho Toà án tìm ra sự thật của vụ án, xác định bị cáo có tội hay không có tội và áp dụng chế tài đối với người phạm tội được đúng đắn.

Các nguyên tắc trong xét xử hình sự là một chỉnh thể thống nhất, không thể quá chú ý đến nguyên tắc này mà hạ thấp nguyên tắc kia hoặc tập trung vào nguyên tắc này mà bỏ qua nguyên tắc khác. Tuy nhiên, có những nguyên tắc chỉ áp dụng trong thủ tục, trình tự này mà không áp dụng trong thủ tục, trình tự khác được.

Các nguyên tắc đó vừa thể hiện quyền, vừa là nghĩa vụ của Toà án trong xét xử hình sự. Nó tạo ra "khuôn khổ" hay "hành lang pháp lý" để Toà án tuân theo và chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Các nguyên tắc đó được khẳng định trong Hiến pháp, Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trước hết phải khẳng định rằng: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật quy định (gọi chung là Toà án)

những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có nghĩa là chỉ có Toà án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử, có quyền tuyên bố người nào đó phạm tội và có quyền áp dụng các biện pháp hình phạt đối với người phạm tội. Theo Điều 126 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì, Toà án có nhiệm vụ là: bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Toà án nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử. Thông qua xét xử án hình sự, Toà án xem xét việc người bị truy tố trước toà có phạm tội hay không, mức độ phạm tội của họ thế nào và cân nhắc áp dụng biện pháp hình phạt đối với họ cho xứng với mức độ nghiêm trọng của vụ án mà họ thực hiện, xảy ra trên thực tế. Đồng thời cũng qua đó, Toà án phải tìm ra nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm và đưa ra những yêu cầu đòi hỏi các cơ quan, tổ chức liên quan khắc phục, ngăn ngừa.

- Việc xét xử của Toà án có Hội thẩm tham gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. (Điều 129, Hiến pháp, Điều 16 BLTTHS)

Đây là quy định thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho nhân dân trực tiếp tham gia quản lý công việc Nhà nước. Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên, luật quy định phải có Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thành niên Cộng sản Hồ Chí Minh tham gia xét xử. Hội thẩm không được tham gia xét xử nếu có lý do xác đáng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ này.

Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán trong việc giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử. Kết quả cuối cùng của việc xét xử của Toà án là quyết định. Quyết định được biểu quyết theo đa số. Trong đó, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Vì vậy, "nguyên tắc này ảnh hưởng đến tính chính xác của bản án và do đó ảnh hưởng gián tiếp đến việc bảo đảm các quyền của bị can, bị cáo" [35,167].

Theo qui định của pháp luật, thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm 1 Thẩm phán và 2 Hội thẩm, trong trường hợp vụ án nghiêm trọng, phức tạp thì gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm, xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và khi cần có thể thêm 2 Hội thẩm, xét

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí