Quy Định Hình Phạt, Mục Đích, Hệ Thống Hình Phạt

Điều 8 Bộ luật hình sự quy định "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý...".

Người có năng lực trách nhiệm hình sự đạt đến độ tuổi nhất định do luật hình sự quy định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là chủ thể của tội phạm và trách nhiệm hình sự cũng chỉ được đưa ra áp dụng đối với chủ thể của tội phạm khi người đó có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Không có chủ thể của tội phạm thì sẽ không thể có hành vi phạm tội và càng không thể có thái độ chủ quan (lỗi) của con người thực hiện hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, không có chủ thể của tội phạm thì cũng không có lỗi, việc phạm tội và trách nhiệm hình sự chỉ là những khái niệm trên giấy mà thôi.

Chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có khả năng điều khiển được hành vi đó theo ý định của mình nhằm đạt được mục đích đã xác định. Bởi vì, trong trường hợp đó, con người mới có khả năng nhận thức được đòi hỏi của pháp luật, của xã hội, nhận biết được đúng sai, nhận thức được việc làm của mình và như vậy cũng mới có khả năng tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Còn những người không có năng lực trách nhiệm hình sự thì cho dù người đó có thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng được coi là người không có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó và do đó, không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Người có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình phải là người đạt đến độ tuổi nhất định (được quy định tại Điều 12 BLHS) và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 13 (tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự) BLHS .

Các dấu hiệu như: năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự là bắt buộc chung cho mọi chủ thể của tội phạm.

Năng lực trách nhiệm hình sự của con người, không phải có từ lúc sinh ra hay còn nhỏ mà nó chỉ có được khi đạt đến độ tuổi nhất định và nó còn sẽ được tiếp tục phát triển

hoàn thiện trong một thời gian tiếp theo. Trên cơ sở này, kết hợp với tinh thần nhân đạo, tôn trọng quyền con người, Điều 12 BLHS quy định:


- Người đã đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi tội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

phạm.


Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - 4

- Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Việc quy định này là sự thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với người chưa thành niên trong độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi. Trước đây, Bộ luật hình sự 1985 quy định người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về tội nghiêm trọng (các tội có mức hình phạt tù từ 5 năm) do cố ý. Nhưng nay, Bộ luật hình sự quy định họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng (các tội có mức hình phạt tù từ 7 năm trở lên) do cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng. Đây là điểm sửa đổi quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Do đó, trong Nghị quyết số 32/1999/QH10 về việc thi hành Bộ luật hình sự đã quy định:

Kể từ ngày Bộ luật hình sự được công bố (4/1/2000) "Không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến 7 năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ, trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại,..."

Ngoài những dấu hiệu bắt buộc chung (năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi chịu trách nhiệm hình sự) cho mọi chủ thể tội phạm thì đối với một số cấu thành tội phạm, chủ thể còn phải có thêm một số dấu hiệu đặc biệt khác nữa. Các dấu hiệu đó là những đặc điểm nhất định về nhân thân: "tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội" (Điều 294 BLHS) chỉ có thể do người tiến hành tố tụng thực hiện...

Trong Bộ luật hình sự 1999, chủ thể của tội phạm được nhìn nhận đúng với vị trí của họ. Tại khoản 2 Điều 3 từ "người" đã thay thế cho từ "kẻ" nêu trong Bộ luật hình sự trước đó, để tránh miệt thị, định kiến đối với bị cáo, dẫn đến thiếu khách quan trong xét xử. ở

đây, Bộ luật hình sự cũng khẳng định người phạm tội là con "người" và do chính họ phạm tội mà bị xử lý bằng hình sự.

Trước đây, người không tố giác tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tức là, là chủ thể của tội phạm. Bộ luật hình sự 1999 không quy định những người đó là chủ thể của tội phạm, tức là họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự - trừ trường hợp họ không tố giác tội phạm là các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng.

Theo Bộ luật hình sự quy định thì, một người (chủ thể) chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội khi người đó có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Như vậy, "luật hình sự Việt Nam không thừa nhận việc quy tội khách quan khi truy cứu trách nhiệm hình sự một người chỉ căn cứ vào hành vi khách quan mà không xem xét đến lỗi của người đó" [20,375].

Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.

Luật hình sự Việt Nam coi lỗi là một trong những cơ sở của trách nhiệm hình sự, là dấu hiệu không thể thiếu được của tất cả các cấu thành tội phạm. Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự tại Điều 47 quy định các vấn đề buộc phải chứng minh trong vụ án hình sự, trong đó có vấn đề ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi; do cố ý hay vô ý.

Luật hình sự chia lỗi thành 2 hình thức: cố ý phạm tội và vô ý phạm tội (Điều 9, 10 BLHS ). Điều 9 BLHS quy định về cố ý phạm tội được chia thành 2 khoản phù hợp với cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Sự phân chia này giúp cho việc đánh giá chính xác hơn tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, mặc dù trong cùng một hình thức lỗi cố ý.

Tương tự như vậy, Điều 10 cũng được chia thành 2 khoản quy định 2 "mức" khác nhau của vô ý phạm tội do quá tự tin và do cẩu thả tương ứng với các mức độ nguy hiểm khác nhau của hành vi phạm tội.

Việc quy định các hình thức lỗi trong Bộ luật hình sự nói lên rằng, tội phạm không những là kết quả của hành vi chống pháp luật mà còn là hệ quả của một thái độ, của sự nhận thức và như vậy là cơ sở của trách nhiệm hình sự. Sở dĩ như vậy vì "hành vi con người suy cho cùng là do điều kiện xã hội khách quan quyết định" [67,9] song hành vi của con người lại thông qua nhận thức, ý chí của con người nên nó không hoàn toàn là kết quả của sự lệ thuộc tuyệt đối vào hoàn cảnh khách quan. Vì rằng, con người có thể biết được hậu quả của hành vi của mình và căn cứ vào đó mà quyết định có tiếp tục thực hiện hành vi đó của mình hay không.

Như vậy, theo Tiến sỹ Đào Trí úc trách nhiệm hình sự phải là hệ quả của hai yếu tố:


1. Là trách nhiệm bởi những gì là hậu quả do hành vi của chủ thể gây ra;


2. Là trách nhiệm bởi hành vi đó cũng như hậu quả của nó đều đã được chủ thể nhận thức và cân nhắc, tính toán, suy ngẫm, hiểu biết ở mức độ nhất định và do đó, là biểu hiện của những mong muốn, tính toán chủ quan của chủ thể [67,11].

Do đó, một hành vi xảy ra ngoài nhận thức chủ quan của cá nhân không thể là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự và hậu quả do hành vi đó gây ra cũng không thể là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Bởi vì, chủ thể không có ý thức gì về hành vi và hậu quả đó. Nếu trong trường hợp ấy, giả sử, trách nhiệm hình sự vẫn đưa ra áp dụng đối với họ thì sẽ không có ý nghĩa và ngược lại, sẽ không nhận được sự đồng tình của chính người đó và xã hội nói chung.

Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà Bộ luật hình sự quy định các hình thức lỗi khác nhau. Các hình thức đó tương ứng với các mức độ nguy hiểm khác nhau của tội phạm. Tội phạm được thực hiện với hình thức lỗi cố ý có mức độ nguy hiểm cho xã hội hơn nhiều so với tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý. Do đó, trách nhiệm hình sự áp dụng đối với các hình thức lỗi khác nhau về nguyên tắc là không thể giống nhau. Xu hướng của luật hình sự hiện nay là sử dụng trách nhiệm hình sự đối với các hành vi có lỗi cố ý. Còn đối với lỗi vô ý chỉ áp dụng trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vô ý trong những trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng; chẳng hạn như một số tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và việc quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Như vậy, việc phân biệt chủ thể tội phạm với các hình thức lỗi khác nhau nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp hình phạt đối với người phạm tội được đúng đắn, công bằng, không thiên vị nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội.

Năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi là các dấu hiệu bắt buộc đối với mọi chủ thể của tội phạm nên cần được quy định rõ ràng, cụ thể trong luật hình sự. Song, Bộ luật hình sự hiện nay chưa đưa ra được qui định (hay định nghĩa) năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ mới đưa ra quy định "tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự" (Điều 13 BLHS).

Bên cạnh đó, lỗi là gì và khi nào thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là có lỗi cũng chưa được khẳng định trong Bộ luật hình sự.


2.1.3. Quy định hình phạt, mục đích, hệ thống hình phạt


Xuất phát từ nhu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các tổ chức ... mà Nhà nước đề ra Pháp luật nói chung và luật hình sự nói riêng. Và để thực hiện pháp luật, Nhà nước dùng hai biện pháp chính là giáo dục thuyết phục và cưỡng chế. Trong đó giáo dục thuyết phục là công việc quan trọng hàng đầu. Song pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự không thể mất đi tính cưỡng chế của nó. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế. Nói đến nó nhiều người nghĩ ngay đến các biện pháp trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước. Song hình phạt được đặt ra, trước hết là để phòng ngừa, răn đe và sau đó mới là cơ sở để Toà án cân nhắc trách nhiệm hình sự đối với ai cố tình vi phạm những điều được pháp luật tuyên bố bảo vệ. Đến lượt nó, bản thân hình phạt cũng phải bảo đảm nhân đạo, công bằng. Mác khẳng định "cả lịch sử lẫn lý trí đều xác nhận như nhau cái sự thật là: sự tàn nhẫn không đếm xỉa tới bất kỳ sự khác biệt nào làm cho sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vô hiệu, bởi vì sự tàn nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là kết quả của pháp luật" [42, 179].

" Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" (Điều 8 BLHS). Hình phạt chỉ do Bộ luật hình sự quy định.

Như vậy, hình phạt là phản ứng của Nhà nước, đồng thời cũng là sự lên án của xã hội đối với người phạm tội. Tính tất yếu, tính không thoát khỏi trách nhiệm của người phạm tội không thể gây ra một sự nghi ngờ nào về bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Điều này cũng có nghĩa là người phạm tội chịu hình phạt phải bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của mình. Để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đòi hỏi ở đây là: biện pháp hình phạt phải được quy định tương xứng với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội "Sự đo lường trách nhiệm đối với tội phạm được và cần phải dựa trên nguyên tắc công bằng và hợp lý" [45,182] "Điều đó đặt ra những đòi hỏi rất cao đối với hoạt động lập pháp khi quy định các biện pháp trách nhiệm (hình phạt)" [73,101].

Thực tiễn cho thấy rằng, việc quy định và đặc biệt là áp dụng các biện pháp hình phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội gặp không ít khó khăn. Do đó, việc lập pháp chưa bao giờ được coi là hoàn thiện. Đồng thời trong xét xử, số lượng các vụ án bị cải sửa theo cả hai hướng tăng và giảm mức hình phạt đối với các bị cáo còn nhiều.

Trong luật hình sự - là luật chứa đựng những biện pháp hình phạt nghiêm khắc nhất, việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân của người phạm tội còn được thể hiện ở chỗ: Nhà nước có quyền trừng trị người phạm tội nhưng phải theo pháp luật, đồng thời phải có nghĩa vụ giáo dục, cải tạo họ thành người có ích cho xã hội. Người phạm tội buộc phải chấp hành hình phạt nhưng cũng có quyền được giáo dục trở thành người lương thiện.

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước vì nó có thể tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích về vật chất, tinh thần và thậm chí cả quyền sống của người phạm tội. Đây là vấn đề nhạy cảm nhất của pháp luật đối với quyền con người. Song không phải vì thế mà pháp luật sẽ phải mất đi hình phạt mà ngược lại, pháp luật quy định hình phạt nhằm phòng ngừa, răn đe và để chống lại tội phạm. Thuộc tính trừng trị vốn có của hình phạt tạo cho chức năng bảo vệ của pháp luật được bảo đảm hơn.

Tính cưỡng chế của hình phạt còn mang nội dung giáo dục, cải tạo người bị kết án, giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Bởi vì, thông qua hình phạt người bị kết án thấy được tính nguy hiểm cho xã hội do việc phạm tội của mình, thấy được trách nhiệm của

mình đối với hậu quả do họ gây ra, thấy được sự phản ứng của Nhà nước và sự lên án của xã hội đối với họ và thấy được việc phải cải tạo để trở thành người lương thiện.

Như vậy, pháp luật hình sự không thể không quy định hình phạt với nội dung giáo dục thuyết phục và trừng trị gắn bó chặt chẽ với nhau.

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy có nhiều loại hình phạt khác nhau. ở Việt Nam, hiện nay hình phạt được Bộ luật hình sự quy định và do Toà án áp dụng. Vấn đề là ở chỗ, việc quy định và áp dụng hình phạt thế nào để bảo đảm có hiệu quả của nội dung giáo dục thuyết phục và trừng trị của hình phạt. Không phải đối với bất kỳ trường hợp phạm tội nào việc quy định, vận dụng nội dung giáo dục, thuyết phục và trừng trị cũng như nhau.Có nghĩa là, đối với tội phạm nghiêm trọng (rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng) thì nội dung trừng trị của hình phạt phải được tăng cường. Và ngược lại, đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì nội dung thuyết phục lại phải được tăng cường, nội dung trừng trị phải giảm đi. Điều đó được thể hiện cụ thể trong các mức hình phạt của các cấu thành tội phạm. Như vậy, mức hình phạt nghiêm khắc sẽ tương ứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Điều này cũng được thể hiện tại Điều 3 BLHS: "Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.

Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.

Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát giáo dục".

Nhà nước ấn định hình phạt đồng thời cũng quy định rõ mục đích của hình phạt. Điều 27 Bộ luật hình sự xác định: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm...".

Như vậy, mục đích của hình phạt là kết quả thực tế mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với cá nhân người phạm tội.


Rõ ràng, hình phạt không nhằm làm đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con

người.


Như đã phân tích, trong luật hình sự Việt Nam hình phạt mang nội dung giáo dục, thuyết phục và trừng trị. Hình phạt nhằm tạo cho người phạm tội nhận thức được lỗi lầm của mình đồng thời nhận thức được sự cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ và giúp họ thấy được sự cần thiết phải tự giác tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Ngoài ra, hình phạt còn có mục đích giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Tinh thần nhân đạo, coi trọng quyền con người của người phạm tội được thể hiện rõ hơn trong quy định mục đích của hình phạt, bằng việc lấy từ "giáo dục" thay cho từ "cải tạo". Cụ thể là: hình phạt " còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội" (Điều 27 BLHS 1999) chứ không phải là "cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội" (Điều 20 BLHS 1985) ít nhiều mang tính đoạ đày. Hình phạt do Bộ luật hình sự quy định không có tính nhục hình. Các biện pháp hình phạt được đặt ra đòi hỏi phải có hệ thống và công bằng.

Hệ thống hình phạt là một chỉnh thể bao gồm các loại hình phạt được quy định trong luật hình sự và được sắp xếp theo một trình tự nhất định tuỳ thuộc vào mức độ nghiêm khắc của mỗi hình phạt.

Theo Bộ luật hình sự, hệ thống hình phạt của nước ta được cấu thành từ 2 loại: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. (Điều 28 BLHS)

Các hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ có thể bị áp dụng một trong bảy hình phạt chính: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, từ chung thân, tử hình.

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí