Ngoài các toà hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động cần có thêm các toà chuyên trách khác nhằm chuyên môn hoá, nâng cao chất lượng xét xử, cũng là bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích của bị cáo và các bên đương sự.
Về thẩm quyền của Toà án, giới hạn của việc xét xử, Điều 170 BLTTHS quy định: "Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử". Quy định như vậy, là không bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Toà án. Vì rằng, Toà án phải xét xử theo đúng tội danh đã nêu. Trên thực tế, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định xử theo tội danh nhẹ hơn, tuyên bố bị cáo không phạm tội. Do đó, luật quy định như vậy là chưa chặt chẽ vì Toà án vẫn có quyền làm khác qui định trên mà vẫn đúng pháp luật. Từ đó, có thể sửa đổi lại Điều 170 như sau: " Toà án chỉ xét xử bị cáo và những hành vi phạm tội của bị cáo mà Viện Kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử". Quy định như vậy là phù hợp với nguyên tắc độc lập xét xử, toàn quyền quyết định của Toà án đồng thời nó còn bảo đảm quyền, lợi ích của bị cáo.
Với phong tục, tập quán, truyền thống, đạo đức của dân tộc hiện nay, tâm lý mặc cảm về việc phải "ra hầu toà" vẫn tồn tại trong nhân dân. Hơn nữa, tính chất phức tạp của các vụ án không giống nhau, có vụ đơn giản, rõ ràng nhưng theo quy định hiện hành thì cũng phải tiến hành, thực hiện đầy đủ các bước theo trình tự thủ tục chung vừa kéo dài thời gian giải quyết vụ án, vừa hạn chế quyền tự do, dân chủ của công dân. Do đó, việc "nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng" theo tinh thần Nghị quyết Trung ương III (khoá 8) là cần thiết.
Như vậy, đối với các vụ án mà: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, hoặc tự thú, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, người phạm tội có lai lịch rõ ràng thì có thể giải quyết (xét xử) theo thủ tục rút gọn, tức là giải quyết trong một thời gian ngắn hơn theo thời hạn quy định chung.
Việc giải quyết theo trình tự rút gọn có thể không cần triệu tập bị cáo và một số đối tượng tham gia tố tụng khác đến phiên toà, trừ trường hợp Toà án thấy cần thiết. Để khắc phục những sai lầm có thể xảy ra, bảo đảm quyền, lợi ích của bị cáo, đối với các vụ án
này vẫn áp dụng trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và quyền được bào chữa của bị cáo.
Để bảo đảm quyền con người của bị cáo thì điều quan trọng là tạo môi trường, điều kiện thuận tiện, công bằng cho các bên tham gia vào quá trình xét xử. "Nghiên cứu các chế định pháp luật về hoạt động truy tố và xét xử các vụ án hình sự trong các điều kiện của một xã hội dân chủ, ta thấy rằng bản chất dân chủ và nhân đạo của các chế định này không phải ở các thủ tục, truy tố, buộc tội, tức là hướng tới việc buộc tội bị can, bị cáo vào một tội danh nào đó mà là ở chỗ tạo ra một thủ tục để làm sáng tỏ các khía cạnh của vụ án để làm rõ tính chất của các hành vi, xác định phạm tội hay không phạm tội, mức độ phạm tội" [59,10].
Do đó, việc tổ chức xét xử phải được tiến hành như một diễn đàn tranh tụng công khai giữa một bên là người giữ quyền công tố và bên kia là bị cáo và người bào chữa hoặc đại diện của họ, và ở đó Hội đồng xét xử là trung tâm, độc lập phán quyết. Muốn vậy thì chế độ duyệt án hay quan niệm "án tại hồ sơ" không thể tiếp tục tồn tại như hiện nay mà thay vào đó là tất cả các tình tiết của vụ án chỉ được làm sáng tỏ tại phiên toà. Phải khắc phục ngay được việc Hội đồng xét xử nghiêng về phía người giữ quyền công tố buộc tội bị cáo. Toà án có nghĩa vụ phải tạo ra và duy trì cho được quá trình tranh tụng công khai, bình đẳng, dân chủ tại phiên toà để các bên có điều kiện thuận lợi đưa ra các chứng cứ, biện hộ cho quan điểm của minh. Phải loại bỏ được tình trạng kết tội oan, kết tội nhầm người vô tội. Để thực hiện điều này, Hội đồng xét xử phải luôn luôn thực sự là người cầm cân nảy mực, phải nêu cao ý thức trách nhiệm của mình. Có như vậy tính khách quan của phiên toà cũng như quyền, lợi ích của bị cáo mới được bảo đảm.
Trước đây, trong hoàn cảnh thù trong, giặc ngoài, Nhà nước cách mạng còn trong trứng nước, "giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó" nên để giữ vững thành quả cách mạng, kịp thời trấn áp bọn phản cách mạng, chúng ta đã bắt đầu áp dụng thủ tục xét xử sơ chung thẩm. Gần đây, ở nước ta thủ tục này đã được thu gọn, chỉ giao cho Toà án tối cao thực hiện trong những trường hợp rất hãn hữu. Nhưng dù sao chăng nữa thì thủ tục này cũng hạn chế quyền của bị cáo. Do vậy, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 7 đã thông
qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự, loại bỏ thủ tục xét xử sơ đồng thời là chung thẩm là hoàn toàn phù hợp.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nguyên Tắc Quyết Định Áp Dụng Hình Phạt (Quyết Định Hình Phạt)
- Quyền Được Coi Là Vô Tội Khi Chưa Có Bản Án Kết Tội Của Toà Án Đã Có Hiệu Lực Pháp Luật.
- Bảo Đảm Thực Hiện Chính Sách Hình Sự Của Đảng, Nhà Nước Ta.
- Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - 11
- Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân - 12
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
Về quyền, nghĩa vụ của bị cáo, người bào chữa:
Phải khẳng định rằng, một hệ thống pháp luật dân chủ tiến bộ phải là hệ thống pháp luật vì con người, cho con người, bảo đảm sự an toàn cho con người trong đó có cả những người có một thời lầm lỗi. Điều này cũng đúng với bản chất của Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ngày nay, các quốc gia không ngừng phấn đấu trên mọi lĩnh vực mà quan trọng hơn cả là lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người .
ở Việt Nam, quyền con người đã được Hiến pháp 1992 khẳng định và cụ thể hoá bằng hệ thống pháp luật. Trong đó luật hình sự, tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền, lợi ích của người phạm tội như đã phân tích, đánh giá qua các phần trên. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật vẫn là thường xuyên nhằm mục đích bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người.
Thực hiện mục đích này, trước hết các quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân nói chung, bị cáo nói riêng phải cụ thể, rõ ràng, xác thực, dễ hiểu, dễ thực hiện.
"Để làm được điều đó, chương V của Hiến pháp 1992 cần bao quát toàn bộ tinh thần của quyền con người" [59,4] để từ đó các luật về quyền con người được củng cố, hoàn thiện.
"Nhà nước pháp quyền coi các quyền và tự do của con người là những giá trị xã hội cao quý nhất" [11,10] cho nên, theo như Hiến pháp 1946, chương "quyền và nghĩa vụ của công dân" nên được đặt ở vị trí chương thứ II trong Hiến pháp.
Một bảo đảm vô cùng quan trọng cần được khẳng định trong Hiến pháp là: Mọi công dân có quyền được khởi kiện yêu cầu Toà án có thẩm quyền trong nước bảo vệ quyền cơ bản của mình khi bị xâm hại trái pháp luật.
Với quy định này, quyền con người được bảo đảm chắc chắn hơn, người dân yên tâm hơn với các quyền của mình và sử dụng có hiệu quả hơn các quyền của họ. Đồng thời quy định này cũng phù hợp với Điều 8 Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bị cáo, bị can thực hiện quyền bào chữa của mình, nên chăng pháp luật cần quy định các văn bản trong quá trình tố tụng phải được dịch ra thứ tiếng mà họ thông thạo. Quy định này không trái với các Điều 5, 132, 133 Hiến pháp 1992 và cũng nói rõ hơn vai trò bảo vệ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Xét xử là khâu trung tâm của quá trình tố tụng. ở đây mọi tình tiết của vụ án phải được làm sáng tỏ và khẳng định. Để việc bào chữa cho bị cáo có hiệu quả thì rõ ràng rằng, không phải người bào chữa chỉ tham gia bào chữa tại phiên toà là đủ mà họ cần được cho phép tham gia vào quá trình tố tụng bằng pháp luật từ khi khởi tố vụ án đối với các trường hợp người bị tình nghi bị bắt giữ, trừ trường hợp cần giữ bí mật đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia. Việc người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng sớm là bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo.
Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo thông qua hoạt động của người bào chữa thì cần có quy định để người bào chữa thực hiện việc kiến nghị của mình. Vì trên thực tế, có những trường hợp việc tham gia bào chữa của người bào chữa không được tạo điều kiện đúng mức, do đó việc tham gia tranh tụng của họ còn có những hạn chế, không đạt hiệu quả như mong muốn. Người bào chữa cần được tham gia vào quá trình tố tụng có tính bình đẳng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Hơn nữa, việc quy định các đối tượng có quyền bào chữa như hiện nay còn bị bó hẹp, chưa tạo được mọi điều kiện thuận lợi để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình như đã phân tích tại phần 3.1, chương II. Do đó, cần có những quy định mở rộng hơn các đối tượng được tham gia bào chữa.
Về quyền, nghĩa vụ của các cơ quan và người (gọi tắt là người) tiến hành tố tụng:
Quyền con người của bị cáo chỉ có thể được bảo đảm khi người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của họ tức là không được lộng quyền, lạm quyền, không được thờ ơ bỏ qua trách nhiệm của mình.
Quyền, nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng đã được cụ thể hoá trong pháp luật hình sự. Tuy nhiên, để bảo đảm cho họ thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình, thiết nghĩ cần có một số quy định chi tiết hơn. Chẳng hạn:
- Để người bào chữa tham gia bình đẳng vào quá trình tố tụng cần có những quy định tạo ra cơ chế để họ thực hiện việc kiến nghị của mình. Theo đó, nên quy định cụ thể nghĩa vụ của người tiến hành phải bảo đảm cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của họ. Một khi, người bào chữa không được tạo điều kiện thuận lợi từ nguyên nhân chủ quan của người tiến hành tố tụng thì người đó có quyền được kiến nghị với người (cấp) có thẩm quyền giải quyết. Và nên chăng coi đây là vi phạm luật hình thức bởi việc tiến hành thủ tục tố tụng không bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 20 BLTTHS), không bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành và tham gia tố tụng (Điều 14 BLTTHS), không bảo đảm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo (Điều 132 Hiến pháp 1992 và Điều 12 BLTTHS) ...
- Tương tự như vậy, việc mớm cung, ép cung đã là điều cấm của pháp luật. Song, trong thực tế, điều đó vẫn còn diễn ra. Theo quy định tại khoản 2, Điều 183 BLTTHS thì, sau khi nghe bị cáo trình bày ý kiến của mình, Hội đồng xét xử chỉ "hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn". Nhưng trong quá trình xét xử, có lúc, có nơi, các câu hỏi theo hướng buộc tội hoặc giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của tội phạm vẫn được đặt ra từ phía Hội đồng xét xử. Việc đưa ra các câu hỏi hướng về kết quả án đã duyệt hay án tại hồ sơ không loại trừ khả năng mớm cung hoặc ép cung.
Thiết nghĩ, để hạn chế và loại bỏ trường hợp mớm, ép cung, cần tăng cường các biện pháp trách nhiệm khác, ngoài biện pháp trách nhiệm hình sự vốn đã được áp dụng rất ít trong thực tiễn cuộc sống.
- Để bảo đảm cho Toà án xét xử độc lập, cần xây dựng cơ chế chống can thiệp từ bên ngoài, từ phía người không có trách nhiệm giải quyết vụ án mà đặc biệt là trong nội bộ các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì suy cho cùng thì việc can thiệp tới quá trình giải quyết án từ phía bên ngoài không nguy hại bằng việc can thiệp trong nội bộ các cơ quan này. ở đây hoàn toàn không thể đồng nhất việc "can thiệp" với việc họp bàn giải quyết án được.
Để thực hiện vấn đề này, cần bổ sung các tiêu chuẩn về Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; tăng cường các biện pháp đãi ngộ đối với người tiến hành tố tụng. Đồng thời nên cải cách thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng lâu dài, thay vì 5 năm một nhiệm kỳ như hiện nay để họ yên tâm công tác, phục vụ.
Một vấn đề rất nhạy cảm đối với quyền con người của bị can, bị cáo là việc tạm giam. Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất ảnh hưởng đến quyền, tự do của người được coi là chưa có tội. Việc nhận thức và áp dụng biện pháp này trong các giai đoạn tố tụng còn có nhiều trường hợp vi phạm pháp luật. Do đó, ngay sau khi thụ lý vụ án, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Toà án cần xem xét việc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của bị can, bị cáo, trong trường hợp không đủ các căn cứ quy định của pháp luật thì phải có quyết định trả tự do cho họ. "Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ, người già yếu, bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì nói chung Toà án không áp dụng biện pháp tạm giam, trừ trường hợp đặc biệt" [28,11].
Về thời hạn tạm giam đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) pháp luật hiện hành quy định không cụ thể, do đó dễ dẫn đến khả năng tạm giam người không cần thiết phải tạm giam hoặc tạm giam quá thời hạn. Do đó, cần quy định cụ thể hơn, theo hướng: khi có các căn cứ tại Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong mỗi giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Toà án có quyền ra lệnh tạm giam một lần và gia hạn tạm giam một lần. Nhưng tổng số thời hạn tạm giam không được vượt quá mức án sẽ tuyên. Quy định này sẽ ngăn ngừa được các trường hợp tạm giam tràn lan, tội nhẹ nhưng phải bị tạm giam lâu. Ngoài ra, để khắc phục tình trạng tạm giam quá hạn, sai pháp luật, cần có quy định bồi thường thiệt hại thoả đáng cho bên bị tạm giam đó.
Về một số quy định cụ thể khác:
- Hoạt động xét xử của Toà án được quy định trên hết tại Hiến pháp. Việc xét xử bất luận trong trường hợp nào cũng không được trái với các quy định đó. Riêng chương X Hiến pháp 1992 có 11/15 điều quy định về hoạt động của Toà án. Ngoài tính tối cao, cụ thể, rõ ràng, các quy định này phải chặt chẽ, lô gíc, dễ hiểu. Với ý tưởng này, xét thấy, Điều 129 Hiến pháp 1992 quy định việc xét xử của Toà án có Hội thẩm tham gia và để làm rõ thêm vấn đề này, nên chăng cần chuyển đoạn 2 Điều 131 Hiến pháp 1992 lên thành
đoạn 2 Điều 129 mà hoàn toàn không làm thay đổi nội dung các quy định của Hiến pháp. Theo đó, Điều 129 sẽ là:
"Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số"
- Trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự, chúng ta đã tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc đó là những tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt toàn bộ nội dung pháp luật hình sự nước ta. Song đến nay, các nguyên tắc đó chưa được khẳng định một cách có hệ thống và độc lập trong Bộ luật hình sự mới ban hành. Việc ghi nhận các nguyên tắc đó thể hiện rõ sự phù hợp của pháp luật nước ta với tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại, đồng thời "đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn áp dụng hình sự - chính xác, thống nhất và đồng bộ, bằng cách đó, sẽ góp phần rất quan trọng vào việc đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ hữu hiệu các quyền và tự do của công dân..." [11,53].
Các nguyên tắc cần được khẳng định có thể là: pháp chế, dân chủ, nhân đạo, công bằng, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân.
- Thể hiện tinh thần nhân đạo, luật hình sự của nước ta hiện nay đã quy định một số trường hợp mà việc gây thiệt hại cho các lợi ích được luật hình sự bảo vệ không bị coi là tội phạm, và tất nhiên, trách nhiệm hình sự được loại trừ. Chính vì vậy, người gây thiệt hại đó không phải chịu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp đó là khi mà hành vi tuy về mặt hình thức có những dấu hiệu của hành vi như một tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội của nó không đáng kể (khoản 4, Điều 8 BLHS), là sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS), do người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện (khoản 1, Điều 13 BLHS), là phòng vệ chính đáng (khoản 1, Điều 15 BLHS), là tình thế cấp thiết (khoản 1, Điều 16 BLHS), do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện (Điều 12 BLHS), xảy ra trước khi Bộ luật hình sự có hiệu lực thi hành (khoản 2, Điều 7 BLHS).
Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống và pháp lý đang đặt ra những vấn đề mà các nhà lập pháp cần nghiên cứu giải quyết. Đó là các trường hợp tuy có gây thiệt hại cho các lợi ích được luật hình sự bảo vệ song tính chất tội phạm của hành vi gây thiệt hại đó cần được loại trừ. Cụ thể như các trường hợp:
+ Bắt người phạm tội quả tang hoặc bị truy nã. Theo Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự thì, bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải người phạm tội quả tang hoặc đang bi truy nã đến cơ quan có thẩm quyền. Song trên thực tế thì điều đó chưa được khuyến khích thực hiện nên ít gặp trong cuộc sống. Bởi lẽ, có người muốn bắt nhưng một mặt họ sợ bị chống trả hoặc mặt khác, quan trọng hơn là sợ trái pháp luật hoặc vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật.
Việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với hành vi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, trước hết bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho việc bắt người này là không trái pháp luật. Tức là việc bắt người đó không phải là hành vi phạm tội. Tuy nhiên trong trường hợp bắt người này, việc gây thiệt hại cho người bị bắt đến mức nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị coi là có tội là vấn đề phức tạp, không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
+ Thi hành chỉ thị, quyết định, mệnh lệnh (gọi tắt là chỉ thị) cấp trên. Thi hành chỉ thị là việc biến các chỉ thị thành hiện thực. Các chỉ thị đó là ý chí của người ban hành (cấp trên) nên do tính chất phục tùng mà người chấp hành thường tin tưởng vào chúng và rắp tâm thực hiện. Cho nên: a) Nếu chỉ thị là đúng pháp luật mà người thi hành có gây thiệt hại cho các lợi ích được luật hình sự bảo vệ thì hành vi gây thiệt hại đó là hành vi hợp pháp; b) Nếu chỉ thị là trái pháp luật nhưng người thi hành không thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước chỉ thị đó là trái pháp luật, buộc họ phải chấp hành, gây thiệt hại cho lợi ích được luật hình sự bảo vệ thì hành vi thi hành chỉ thị đó không bị coi là tội phạm mà chính người ra chỉ thị đó phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại mà người thi hành gây ra. Trong trường hợp này, người thi hành chỉ là công cụ của người ra chỉ thị. Người ban hành chỉ thị thấy trước (và buộc phải thấy trước) hậu quả của việc thực hiện chỉ thị đó nhưng vẫn ban hành để buộc người thi hành phải thực hiện và đã sử dụng người thi hành như là công cụ để thực hiện tội phạm; c) Nếu chỉ thị là trái pháp luật mà người thi hành biết rõ chỉ