Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 2


- Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp; thống kê, đối chiếu, so sánh… Ngoài ra, đề tài còn tham khảo số liệu, luận điểm của một số công trình nghiên cứu trước đó.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến phát triển du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam nói chung, ở Phú Thọ nói riêng. Luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cầu gồm 3 chương, 12 tiết.

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 82 trang tài liệu này.


Chương 1

Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài

1.1.1. Khái niệm du lịch, phát triển du lịch

Trước tiên, để hiểu khái niệm phát triển du lịch, cần thiết làm rõ thuật ngữ du lịch.

Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tornos” – mang nghĩa đi một vòng. Về sau, thuật ngữ “tornos” được dịch sang tiếng Latinh là “tornus” và tiếng Pháp là “tour” – mang nghĩa đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Tiếp theo đó, thuật ngữ du lịch xuất hiện trong tiếng Nga: “typnct” và trong tiếng Anh: “tourism”.

Khoản 1, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 quy định: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác” [18]. Luận văn sử dụng định nghĩa của Luật Du lịch Việt Nam năm 2017 để triển khai nghiên cứu.

Có nhiều loại hình du lịch khác nhau, tùy theo cách phân chia. Theo môi trường tài nguyên, hoạt động du lịch được chia làm 2 nhóm lớn là du lịch văn hóa và du lịch thiên nhiên. Gọi là du lịch văn hóa khi hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn, hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch nhân văn. Du lịch thiên nhiên diễn ra nhằm thỏa mãn nhu cầu về với thiên nhiên của con người (như du lịch biển, du lịch núi, du lịch nông thôn,…) [23,tr.63]. Ngoài cách phân loại như trên, phân loại theo mục đích hoạt động du lịch thì có thể có du lịch giải trí, du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng, hoặc du lịch kết hợp với các hoạt động khác….


Có thể thấy rằng, với các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú nhằm đáp ứng yêu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí,… thì nhắc đến hoạt động du lịch người ta cũng thường coi đó là ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao nhận thức về tự nhiên, về lịch sử, văn hóa, đất nước, con người; hiệu quả về mặt kinh tế,… Theo nghĩa đó, du lịch được xem là ngành công nghiệp không khói. Việc đẩy mạnh phát triển du lịch được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm, chú trọng. Ở Việt Nam, trước Đổi mới, du lịch được coi là một hoạt động văn hóa xã hội thuần túy, sau đó, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội, từ năm 1986, du lịch được coi là một ngành kinh tế trong lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Với tư cách một ngành nghề kinh doanh, hoạt động du lịch, một mặt, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm cho các khu vực có điểm du lịch, tạo sự trao đổi giao lưu văn hóa,…, nhưng mặt khác, cũng tạo nguy cơ ô nhiễm môi trường; sự phai nhạt bản sắc văn hóa của các cộng đồng có nhiều du khách đến thăm, sự quá tải về cơ sở hạ tầng,… Chính vì lý do đó, hoạt động du lịch cần phải được định hướng phát triển.

* Khái niệm phát triển du lịch

Phát triển du lịch là một tất yếu khách quan, gắn với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và con người bởi khi con người đã thỏa mãn nhất định nhu cầu ăn, mặc, ở, họ có thời gian rảnh rỗi, và có điều kiện đi đây đi đó để cảm nhận được vẻ đẹp của các vùng đất, các nền văn hóa khác nhau,...

Ngày 16 tháng 01 năm 2017, Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Theo đó, Nghị quyết khẳng định, phát triển du lịch đã, đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam [5,tr.1].


Với những điều đã trình bày như trên, có thể thấy, phát triển du lịch là sự phát triển, một mặt, đáp ứng các yêu cầu về kinh tế - xã hội; mặt khác, là đảm bảo việc bảo vệ môi trường. Đây là điều mà ngày nay người ta hay gọi là sự phát triển du lịch bền vững – sự phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến khả năng phát triển du lịch trong tương lai.

Điều 4, Luật Du lịch năm 2017 quy định nguyên tắc phát triển du lịch như sau: “1. Phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có

trọng tâm, trọng điểm.

2. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng.

3. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.

5. Phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế; tôn trọng và đối xử bình đẳng đối với khách du lịch”.

1.1.2. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển du lịch

*. Khái niệm chính sách

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...” [31,tr.475].

Tác giả Smith cho rằng “khái niệm chính sách bao hàm sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực lượng có quan hệ với nhau”. Smith nhấn mạnh “không hành động” cũng như


“hành động” và nhắc nhở chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào các quyết định tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định chống lại sự thay đổi và khó quan sát vì chúng không được tuyên bố trong quá trình hoạch định chính sách” [40,tr.4].

Cụm từ “chính sách” khi gắn việc thực hiện chức năng, vai trò của nhà nước (khu vực công) được gọi là chính sách công. Thuật ngữ “chính sách” sử dụng trong luận văn này được hiểu là chính sách công. Theo đó, chủ thể ban hành chính sách, mục đích tác động của chính sách và vấn đề chính sách hướng tới giải quyết đều gắn với chủ thể ban hành của nó – Nhà nước.

Theo James Anderson, “Chính sách công là đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm” [41]. Do đó, B.Guy Peter cho rằng, “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân” [19].

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của nhà nước. Chính sách công cho phép Chính phủ đảm nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chính và bảo vệ an toàn Tổ quốc” [17,tr.99-100]. Tác giả Nguyễn Hữu Hải cho rằng, “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [7,tr.14]. Đề tài đồng ý với cách tiếp cận của tác giả Nguyễn Hữu Hải.

Khi đề cập đến chính sách công, người ta thường đề cập đến chu trình của một chính sách công, bao gồm: xây dựng chính sách, thực thi chính sách và điều chỉnh chính sách [22,tr.31-37]. Mỗi giai đoạn có vai trò và vị trí quan trọng riêng.


Khái niệm Chính sách phát triển du lịch

Với những điều đã trình bày như trên về phát triển du lịch, về chính sách (công), có thể thấy rằng, chính sách phát triển du lịch là sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng bằng những quyết định, quy định của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề trong phát triển du lịch; qua đó, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển du lịch của đất nước nói chung; các vùng miền, lĩnh vực du lịch nói riêng.

Một cách chung nhất, khi đề cập đến chính sách phát triển du lịch thì người ta thường đề cập đến các nội dung cơ bản sau:

- Phạm vi và đối tượng của chính sách phát triển du lịch

Chính sách phát triển du lịch được Nhà nước ban hành hướng đến giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch Việt Nam. Khi chính sách được ban hành sẽ có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự phát triển du lịch trong phạm vi toàn quốc, hoặc ở những phạm vi vùng miền, lĩnh vực.

- Mục tiêu của chính sách phát triển du lịch

Về cơ bản, việc đề ra chính sách phát triển du lịch, ngoài thực hiện một mục tiêu cụ thể nào đó thì cần đạt được mục tiêu chung (mục tiêu cuối cùng) là phát triển du lịch Việt Nam. Do đó, để thực hiện được mục tiêu chung, trước hết chính sách phát triển du lịch cần đạt được mục tiêu cụ thể. Điều này có nghĩa là, việc đề ra và thực hiện chính sách du lịch, dù ở phạm vi vi mô, thì cũng cần có sự thống nhất với các chính sách phát triển du lịch chung khác, với các chính sách khác, để tránh trường hợp “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

- Giải pháp của chính sách phát triển du lịch

Trên cơ sở mục tiêu của chính sách phát triển du lịch, Nhà nước cũng đưa ra các giải pháp để đạt được mục tiêu chính sách trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian và các nguồn lực cần thiết. Tuy nhiên, vì mục tiêu của chính sách phát triển du lịch thể hiện ở các cấp độ khác nhau nên các giải pháp của chính sách phát triển du lịch cũng được điều chỉnh và cụ thể


hóa cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, từng địa phương trong quá trình triển khai thực hiện chính sách.

- Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển du lịch

Trên cơ sở mục tiêu và giải pháp đã được xác định, các nguyên tắc chỉ đạo được thực hiện mục tiêu sẽ được xây dựng. Nguyên tắc chỉ đạo có vai trò quan trọng nhằm hiện thực hóa các chính sách và đảm bảo việc thực hiện chính sách thành công.

- Nguồn lực thực hiện chính sách phát triển du lịch

Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì chính sách sẽ không thể thực hiện được một cách hiệu quả nếu như nguồn lực thực hiện chính sách không được tính toán một cách chính xác, kỹ lưỡng. Nguồn lực ở đây có thể là nhân lực, cũng có thể là tài chính.

- Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách phát triển du lịch

Cần xác định cụ thể đâu là cơ quan, cá nhân quản lý việc thực hiện chính sách phát triển du lịch và đâu là cơ quan, cá nhân triển khai các hoạt động cụ thể của chính sách này.

- Thời gian triển khai chính sách phát triển du lịch

Bất cứ chính sách nào cũng phải xác định phạm vi thời gian. Có những chính sách dài hạn, có chính sách ngắn hạn, hoặc trung hạn. Trên cơ sở xác định phạm vi thời gian, chúng ta sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện hợp lý.

1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách, thực hiện chính sách phát triển du lịch

Khái niệm thực hiện chính sách hay cũng có nhiều tài liệu sử dụng cách gọi “thực thi chính sách” hoặc “tiến hành thực hiện chính sách”, thực chất đều cùng một nội hàm; thông thường, đó là giai đoạn tiếp sau quá trình hoạch định và trước quá trình đánh giá chính sách công.

Theo Thomas Dye, “thực thi bao gồm tất cả các hoạt động được thiết kế để thực hiện các chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Vì


các chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có chủ định, nên chính phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà sau đó được thực hiện để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích” [38,tr.4].

Tác giả William Dunn cho rằng: “Các hành động chính sách công có hai mục đích chính: điều chỉnh và phân bổ” [39,tr.277-278]. Các hành động điều chỉnh là những hành động được thiết kế để bảo đảm sự tuân thủ các tiêu chuẩn hoặc thủ tục nhất định. Các hành động phân bổ là những hành động đòi hỏi các đầu vào như tiền, thời gian, nhân sự và thiết bị. Các hành động điều chỉnh và phân bổ có thể có những kết quả là phân phối và phân phối lại [22,tr.97].

Về cơ bản, có thể coi thực hiện chính sách (công) – một khâu trong chu trình chính sách để đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội. Đây là quá trình ban hành các văn bản, chương trình, dự án,... nhằm hiện thực hóa nội dung chính sách để đạt được mục tiêu đã định hướng.

Có thể thấy, thành công của một chính sách phụ thuộc vào rất nhiều vào việc tổ chức thực thi chính sách đó trên thực tế. Người ta thường không biết trước được chính sách có đạt được mục tiêu mong muốn hay không hay đạt đến mức độ nào, tác động của chính sách đối với xã hội ra sao… Những điều này phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thực thi chính sách” [20,tr.24]. Việc thực hiện chính sách công có vai trò quan trọng. Đó là từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chính sách, khẳng định tính đúng đắn của chính sách công và giúp cho chính sách công ngày càng hoàn thiện hơn [9,tr.12-14].

Về cơ bản, việc thực hiện chính sách bao gồm nhiều giai đoạn. Theo các tác giả Lê Như Thanh và Lê Văn Hòa, chu trình thực hiện chính sách công gồm:

(1) Xây dựng và ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách công (2) Tổ chức thực hiện các văn bản, chương trình, dự án,... thực thi chính sách công. Giai đoạn này bao gồm nhiều nội dung nhỏ, như xây dựng kế hoạch tổ chức thi hành văn bản, hoặc lập kế hoạch thực hiện chương trình, dự án; tuyên truyền, phổ biến nội dung văn bản, chương trình dự án; tập huấn văn bản, bồi

Xem tất cả 82 trang.

Ngày đăng: 11/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí