quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề quan tâm”[56]. B.Guy Peters (năm 1990) định nghĩa cụ thể hơn: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân”.[16, tr.41]. Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính cho rằng, “Chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của nhà nước. Chính sách công cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và bảo vệ an toàn Tổ quốc” [41, tr. 99-100]. Một số tác giả của Tập bài giảng Chính trị học của Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: “Chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [49, tr.257]. Theo tác giả Nguyễn Hữu Hải trong “Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách công”, ông cho rằng “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [13, tr.14].
Ở Việt Nam, Chính sách công được hiểu là công cụ để thực hiện hóa đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [8, tr.70]. Quá trình Đảng ta lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ xuất hiện những vấn đề mà Nhà nước phải giải quyết bằng chính sách. Như vậy, Chính sách công có vai trò quan trọng trong việc quản lí, điều hành xã hội và chính sách công được ban hành phải đảm bảo phù hợp định hướng chính trị mà Đảng ta đã xác định. Theo Văn Tất Thu trong bài báo Bản chất, vai trò của chính sách công được đăng tải ngày 27 tháng 01 năm 2017 trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước xác định: chính sách công có vai trò định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội theo các mục tiêu chung, phát huy mặt tích cực đồng thời khắc phục hạn chế của nền kinh tế thị trường, tạo lập các cân đối trong phát triển, kiểm soát, phân bổ các nguồn lực trong xã hội, tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển, từ đó thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các
ngành liên quan. Với vai trò, ý nghĩa đó, việc ban hành, kiểm soát, đánh giá chính sách là những khâu quan trọng trong quản lí, điều hành các lĩnh vực công [35].
Thực hiện chính sách công: là quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các quy định, thủ tục, chương trình, dự án… và thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu của chính sách được ban hành. Thực hiện chính sách công là quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể ban hành chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu nhất định mà chủ thể đặt ra. Đây là khâu có ý nghĩa quan trọng nhằm duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý nhà nước và đạt mục tiêu chính sách đề ra.
1.1.2. Tổ chức thực hiện chính sách công
Tổ chức thực hiện chính sách công là một khâu quan trọng hợp thành quy trình thực hiện chính sách. Thực hiện chính sách công có vai trò to lớn trong quy trình thực hiện chính sách công, thể hiện:
Thứ nhất, thực hiện chính sách công là giai đoạn biến ý chí, thái độ ứng xử của nhà nước với các đối tượng quản lý thành hiện thực, hay nói cách khác đây là quá trình đưa ý đồ của nhà nước vào thực hiện trong đời sống xã hội.
Thứ hai, Thực hiện chính công là việc từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chính sách công. Thực hiện chính sách công bao gồm các hoạt động có tổ chức do chủ thể thực hiện nhằm hướng tới đạt được các mục đích và mục tiêu được chủ thể tuyên bố trong chính sách. Trong quá trình thực hiện chính sách, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiến hành thiết lập các quy định, chương trình, dự án và các thủ tục liên quan để hiện thực hóa mục đích, mục tiêu của chính sách cũng như tiến hành các hoạt động để thực hiện các quy định, chương trình, dự án, thủ tục đã đề ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện chính sách pháp luật về quản lý viên chức ngành giáo dục tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - 1
- Thực hiện chính sách pháp luật về quản lý viên chức ngành giáo dục tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - 2
- Thực hiện chính sách pháp luật về quản lý viên chức ngành giáo dục tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - 4
- Khái Quát Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Quản Lý Viên Chức Ngành Giáo Dục
- Nội Dung Thực Hiện Chính Sách Pháp Luật Về Quản Lý Viên Chức Ngành Giáo Dục
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
Thứ ba, Thực hiện chính sách là khâu kiểm định tính đúng đắn của chính sách đã ban hành.Trên thực tế, khi một chính sách được ban hành để triển khai thực hiện trong thực tiễn phải đảm bảo các tiêu chuẩn của một chính sách tốt và được chủ thể ban hành thừa nhận.Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện chính sách vào trong đời sống xã hội sẽ có những vấn đề đặt ra đôi khi chủ thể ban hành chính sách không thể dự đoán trước. Chính vì vậy, thực hiện chính sách là khâu cung cấp những bằng chứng thực tiễn về việc kết quả thực hiện của các chính sách đó có đạt được mục đích, mục tiêu chính sách ban hành hay không, các giải pháp đề ra trong chính sách đưa vào áp
dụng có thực sự phù hợp với vấn đề mà chính sách hướng tới giải quyết hay không. Tính đúng đắn của chính sách công được đánh giá thông qua xã hội và đối tượng thụ hưởng khẳng định.
Thứ tư, Thực hiện chính sách công là khâu giúp chính sách công ngày càng hoàn thiện hơn.Bởi vì, chính sách công ban hành lần đầu là sự định hướng về mục tiêu, giải pháp để giải quyết các vấn đề công. Trên cơ sở của chính sách lần đầu, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp theo thẩm quyền tiến hành cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp đó thành chương trình, dự án, các thủ tục cụ thể cho phù hợp điều kiện cụ thể để thực hiện chính sách. Trong quá trình thực hiện chính sách, những người thực hiện sẽ đưa ra những đề xuất điều chỉnh chính sách phù hợp với đời sống xã hội, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng các chính sách trong thời gian tới.
Quá trình tổ chức thực hiện chính sách công, gồm có các khâu sau đây:
- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công: là khâu phức tạp, thực hiện trong thời gian dài, vì vậy đòi hỏi các chính sách phải được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện một cách chủ động.
- Phổ biến, tuyên truyền chính sách công: là nhằm giúp cho đối tượng và mọi người dân hiểu về mục đích, yêu cầu, tính đúng đắn của chính sách trong từng điều kiện, hoàn cảnh nhất định và tính khả thi của chính sách để họ tự giác tham gia thực hiện.
- Phân công phối hợp thực hiện chính sách công: Tổ chức thực hiện chính sách công cụ thể trong thực tế thường có sự phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện. Khi thực hiện phân công, phối hợp cần thực hiện theo tiến trình, có kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính sách.
- Duy trì chính sách công: là những hoạt động nhằm đảm bảo cho chính sách tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế.
- Điều chỉnh chính sách công: Đây là một hoạt động cần thiết trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách để chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế.
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách: Kiểm tra, theo dõi phải sát sao tình hình tổ chức thực hiện chính sách để kịp thời bổ sung, hoàn thiện
chính sách, đồng thời chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách, giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách đề ra.
- Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách công: Đây là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực hiện chính sách. Cơ sở để thực hiện đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách trong cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và nội dung, quy chế được xây dựng, các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các
tổ chức xã hội, các văn bản quy phạm khác.
Bên cạnh việc xem xét kết quả chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước thì trong công tác đánh giá, tổng kết còn xem xét các đối tượng tham gia thực hiện chính sách, đó là người thụ hưởng lợi ích trực tiếp, gián tiếp từ chính sách, họ là tất cả các thành viên trong xã hội với tư cách công dân. Thước đo để đánh giá đối tượng là tinh thần hưởng ứng các mục tiêu chính sách, ý thức chấp hành những cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách trong điều kiện về không gian, thời gian cụ thể.
1.2. Khái quát về viên chức và quản lý viên chức ngành giáo dục
1.2.1. Quan niệm về viên chức
Từ trước đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm viên chức.Ở nhiều quốc gia trên thế giới, thuật ngữ viên chức được sử dụng phổ biến nhưng khái niệm viên chức được hiểu rất khác nhau. Điều này là do tính chất đặc thù về thể chế chính trị - hành chính của mỗi quốc gia và phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử phát triển. Tuy nhiên hầu hết đều có một quy định chung là: viên chức bao gồm những người làm việc trong các tổ chức cung cấp dịch vụ sự nghiệp công do Nhà nước lập ra như y tế, giáo dục, văn hoá... Những người hoạt động chính trị do bầu cử, người phục vụ trong hệ thống cơ quan hành pháp hay hoạt động sản xuất kinh doanh không phải là viên chức.
Ở Việt Nam, trải qua các thời kỳ khác nhau, nội hàm của khái niệm viên chức cũng có sự thay đổi lớn.Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, do yêu cầu của cuộc kháng chiến nên nước ta chưa có điều kiện để xây dựng nền hành chính mang tính phục vụ dịch vụ công và vì thế đội ngũ viên chức nhà nước chưa quy
định.Từ đầu những năm 60 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, ở nước ta không tồn tại khái niệm viên chức riêng biệt mà thay vào đó là khái niệm cán bộ, công nhân viên chức nhà nước, không phân biệt những người hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động cung cấp dịch vụ công và hoạt động sản xuất kinh doanh. Tất cả những người được tuyển dụng vào biên chế, làm việc trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, nhà máy, công trường, xí nghiệp,... đều được gọi chung là cán bộ, công nhân viên chức và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Đến năm 1998, ngay cả khi Pháp lệnh cán bộ, công chức được ban hành thì quy định những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đoàn thể được gọi chung trong một cụm từ là “cán bộ, công chức”, vẫn chưa có sự phân định những người làm việc trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp. Chính vì suốt một thời gian dài khái niệm cán bộ, công chức, viên chức chưa được phân định rõ ràng nên việc áp dụng thể chế quản lý các đối tượng này là như nhau. Chỉ tới năm 2003, sau khi Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 được ban hành và đặc biệt được đánh dấu bởi các Nghị định 116, 117/2003/NĐ-CP thì khái niệm viên chức mới có sự phân biệt tương đối rõ với các khái niệm cán bộ, công chức.Điều 2 của Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước xác định: “Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, khái niệm viên chức đã được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện gắn với sự phát triển của nền hành chính nhà nước, với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Khi sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003, chúng ta đã bước đầu thực hiện việc phân định người thuộc biên chế trong cơ quan hành chính với biên chế trong đơn vị sự nghiệp công lập. Việc phân định này đã tạo
cơ sở để tiến hành đổi mới cơ chế quản lý đối với công chức trong các cơ quan Nhà nước và viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Qua quá trình xác lập và quản lý đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp, đến năm 2010 Luật viên chức đã được ban hành để điều chỉnh đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tuy nhiên, phải đến khi Luật Viên chức được ban hành (Luật số 58/2010/QH12) thì khái niệm Viên chức mới được nêu một cách cụ thể:“Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” (Điều 2, Chương I).tại Điều 2 của Luật Viên chức 2019 tiếp tục quy định “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Từ khái niệm trên, để xác định một người là viên chức có thể căn cứ vào các tiêu chí như sau:
Một là, công dân Việt Nam. Công dân Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch 2008 ( sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức 2019 sửa đổi được xác định là: người mang quốc tịch Việt Nam. Tiêu chí này cũng tương tự như cán bộ, công chức. Mặc dù, theo quan điểm của nhiều nhà khoa học quy định viên chức phải là công dân Việt Nam là một quy định quá chặt chẽ. Nếu như cán bộ, công chức công việc mang tính chính trị - hành chính đòi hỏi phải là công dân Việt Nam để đảm bảo an ninh trật tự thì đối với viên chức là những người gắn liền với trình độ, chuyên môn cao thì việc sử dụng viên chức là người nước ngoài trở thành một nhu cầu quan trọng đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn cao như giáo dục hay y tế [; 9].
Hai là, nơi làm việc
Viên chức làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập. Đây cũng là điểm khác biệt so với cán bộ, công chức khi các đối tượng này chủ yếu làm việc trong cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị xã hội ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện (trừ một số công chức là lãnh đạo, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập).Theo khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức năm 2010, đơn vị sự nghiệp công lập được hiểu là “…tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”. Dịch vụ công bao gồm các hoạt động phục vụ nhu cầu chung của xã hội, các quyền và lợi ích cơ bản hợp pháp của con người và công dân như giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học, bảo hiểm, an sinh xã hội...
Thời kỳ bao cấp, Nhà nước là chủ thể độc quyền trong việc tổ chức và trực tiếp cung cấp dịch vụ công bằng nguồn kinh phí được cấp từ ngân sách nhà nước, những người làm việc ở đây hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng XHCN, để nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội trong điều kiện cạnh tranh của thị trường và nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước có giới hạn, Nhà nước đã tiến hành xã hội hoá các dịch vụ công thông qua việc huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động của người dân và các tổ chức vào hoạt động cung cấp dịch vụ công. Tuy nhiên vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ cônglà rất quan trọng nên Nhà nước vẫn tự tổ chức ra các đơn vị cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Và các đơn vị sự nghiệp công lậplà các tổ chức do Nhà nước lập ra và vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp dịch vụ trong các lĩnh vực: Giáo dục đào tạo; dạy nghề; y tế; văn hóa, thể thao và du lịch; thông tin truyền thông và báo chí; khoa học và công nghệ...
Ba là, chế độ tuyển dụng và hình thức làm việc
Viên chức làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc. Đây cũng là điểm khác biệt với cán bộ, công chức là người trong biên chế nhà nước.
Thuật ngữ “ hợp đồng làm việc” lần đầu tiên được quy định trong Nghị định 116/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập đánh dấu một xư hướng mới thay thế cho chế độ “biên chế” tồn tại rất lâu trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Nghị định 115/2020/NĐ-CP quy định về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức ngày 25 tháng 9 năm 2020 của chính phủ cũng tiếp tục quy định rõ. Hợp đồng làm việc có hai loại: có thời hạn và không thời hạn. Việc xác định viên chức làm việc theo chế độ hợp đồng là điểm mới trong tư duy quản lýnhân sự của nhà nước. Hợp đồng làm việc là căn cứ để viên chức và bên tuyển dụng có sự thỏa thuận về vị trí việc làm, tiền lương, chế độ đãi ngộ, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên… Hợp đồng làm việc là cơ sở pháp lí để sau này xử lí các việc liên quan đến việc vi phạm quyền hay các vấn đề khác phát sinh giữa hai bên. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với cải cách hành chính, Nhà nước tiến hành cải cách lĩnh vực sự nghiệp công. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động sự nghiệp công, khắc phục tình trạng hành chính hóa, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động sự nghiệp công, cần phải thay đổi cách tuyển dụng, cơ chế, chế độ, chính sách đối với viên chức nhà nước; không áp dụng cách thức tuyển dụng vào làm việc suốt đời mà theo chế độ hợp đồng; tạo quyền chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công và qua đó đòi hỏi viên chức nhà nước phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện và học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình. Nếu người viên chức không đáp ứng được yêu cầu, cũng như căn cứ vào nhu cầu, khả năng của hai bên thì hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc của họ có thể bị chấm dứt bất kỳ lúc nào.
Việc kí hợp đồng làm việc căn cứ vào nhu cầu và viên chức sẽ được tuyển dụng theo vị trí việc làm. Vị trí việc làm được hiểu là “công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lí tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lí viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập” (Điều 7 Luật Viên chức 2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2012; Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức 2019 sửa đổi ). Vị trí việc làm có thể có một hoặc nhiều công việc, có tính thường xuyên, liên tục chứ không bao gồm những công việc thời vụ, tạm thời. Để được tuyển dụng vào vị trí việc làm thì phải thông qua một trong hai phương thức tuyển dụng: thi tuyển hoặc xét tuyển. Vàviệc tuyển dụng viên chức phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp