thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người (cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của sự tồn tại này (cái được biểu đạt).
Theo đó, Biểu tượng văn hóalà những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành động, ý niệm…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng cho những nền văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi kiêng kị, thần linh… Biểu tượng văn hóa là sự tồn tại ở bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan.
3.2 Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn
Thơ Dương Thuấn dày đặc những hình ảnh mang hơi thở cuộc sống miền núi. Viết về đề tài miền núi, Dương Thuấn đã chủ động thâu tóm thiên nhiên, cảnh vật, phong tục tập quán đủ đầy và sinh động nhất. Người đọc thấy hiện lên trong thơ ông hình ảnh thiên nhiên núi rừng với núi sông, mặt trăng, mặt trời, gió ngàn, mưa rừng, thác lũ… hay con người, cảnh vật của cuộc sống sinh hoạt và lao động hằng ngày cũng như những phong tục lễ hội, đời sống tinh thần của cộng đồng. Cá biệt có những hình ảnh xuất hiện với tần số cao, lặp đi lặp lại nhiều lần, khi đó chúng không còn là hình ảnh miêu tả đơn thuần mà ẩn chứa nhiều dụng ý, tư tưởng của tác giả. Từ những hình ảnh tiêu biểu cho quê hương nhà thơ đã nâng chúng trở thành biểu tượng văn hóa đặc trưng cho những giá trị văn hóa dân tộc, bản làng quê ông. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của luận văn, chúng tôi khảo sát kỹ hơn những hình ảnh – biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn: bản Hon, núi, sông, nước và trăng. Sở dĩ có sự lựa chọn trên không chỉ vì những biểu tượng trên xuất hiện nhiều trong thơ Dương Thuấn mà chúng còn là nhân chứng cho sự ra đi và trở về với quê hương của tác giả.
3.2.1 Bản Hon
Bản Hon của dân tộc Tày - quê Dương Thuấn đã cho ông một suối nguồn vô tận văn hóa Tày và ông luôn có ý thức phổ biến vẻ đẹp văn hóa ấy trên thi đàn Việt và quốc tế. Từ “Hon” trong tiếng Tày có nghĩa là “mào”, ý nói bản Hon toàn những người có mào. Theo tiếng Kinh thì đó là những người có “máu mặt”, biết ăn nói và làm được việc. Có lẽ vì thế mà bản Hon cũng giàu truyền thống văn hóa, phong tục hơn. Tâm thức văn hóa Tày luôn nuôi dưỡng ông, cho ông một lộ trình thi ca, định dạng phong cách thơ ông – vừa dân tộc lại vừa hiện đại. Hay nói đúng hơn, thơ Dương Thuấn đến với hiện đại từ truyền thống. Trong quá trình sáng tạo, Dương Thuấn đã tôn vinh được văn hóa Tày. Từ trong sâu thẳm văn hóa Tày là nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ và trở thành chất liệu cho ông sử dụng trong tác phẩm của mình:
Bản Hon ở xa trên rẻo cao Hà Nội lên đi xe một ngày Qua mấy núi mấy đèo sẽ đến
Ở nhà sàn ăn nước sông Năng Tới bản Hon ngồi trên mây Những ngôi nhà sàn bốn mái Ngói máng lên rêu xanh thẫm Lên non đón khách xa thăm
Có thể bạn quan tâm!
- Thái Độ Với Truyền Thống Dân Tộc
- Triết Lí Của Một Chàng Trai Miền Núi
- Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 8
- Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 10
- Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 11
- Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 12
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
(Về bản)
Những thi tập của Dương Thuấn đều có nguồn cội từ bản Hon – nơi mạch nguồn nuôi dưỡng sáng tác cho ông. Bản Hon chiếm một số lượng lớn những bài thơ hay trong tuyển tập của Dương Thuấn: 536/800 bài. Bản Hon chính là bản của dân tộc Dương Thuấn, là quê hương miền núi máu thịt. Trong hành trình sống của mình, nhà thơ hay trở về thăm quê để khi rời quê
hương ra đi nhiều lúc nhà thơ dừng lại để ngoái nhìn quê hương rồi lại đi tiếp. Mỗi lần ngoái lại như thế là thêm một lần quê hương nạp cho ông thêm niềm tin vào cội nguồn văn hóa dân tộc và tạo cảm hứng sáng tạo. Hành trình trở về quê hương Dương Thuấn gọi là “đi ngược mặt trời” nhưng chính trong quá trình đi ngược ấy, Dương Thuấn đã chạm được vào sâu thẳm nguồn mạch của thi ca. Cái bản Hon của Dương Thuấn giờ đã trở thành một địa chỉ văn hóa. Những trò chơi dân gian như ném còn, đánh cầu yến… đồng bào ông ai ai cũng biết chơi, đối với nhà thơ chất liệu đó luôn là những gì thân thương chốn quê nhà và đồng hành suốt trong hành trình sống luôn trong tiềm thức để dẫn ông trở về bản Hon. Bản Hon là nơi lần đầu tiên Dương Thuấn nhìn thấy mặt trời và cũng là chốn khởi đầu để ông được làm người, được làm thi sĩ: “Sải dọc đo trời/ Sải ngang đo bể/ Bàn chân đi/ Bàn chân lại quay về”.
Từ quê hương Bắc Kạn, Dương Thuấn xuống đồng bằng đi nhiều nơi và sang cả nước Mỹ tới đâu Dương Thuấn cũng nói về quê hương - bản Hon mình bằng lối nói chân thật nhất. Quê hương đã cho ông một trữ lượng lớn tri thức dân tộc để ông đủ tự tin khi nói về dân tộc Tày và non nước hữu tình Bắc Kạn trong đó có ngôi nhà của ông ở bản Hon, bản Hon niềm tự hào của nhà thơ. Kỉ niệm hai lần sang Mỹ thuyết trình về văn hóa Tày trong tiến trình hội nhập, nhà thơ đã viết bài thơ Từ bản Hon đến Washington, ông tự hào nói:
Tôi – Đứa con của của bản Hon Đứa con của dân tộc Tày
Tôi – Người con của Tự do
Công dân của nước Việt Nam độc lập Tôi – Nhà thơ của hai thế ký
Thế kỉ hai mươi và thế kỷ hai mốt
Những ngày ở Mỹ chắc hẳn Dương Thuấn vẫn ngoái về bản Hon, vọng về quê hương thân thương. Nhà thơ đã làm được một điều kì diệu trong đời mà tổ
tiên ông cha chưa làm được đó là vượt biển sang bên kia đại dương để nói về truyền thống của văn hóa Tày trong thời đại hội nhập và phát triển. Đối với Dương Thuấn mà nói, bản Hon - xứ sở của ông có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Xứ sở với ông không chỉ là nguồn cội mà còn mang một ý nghĩa nhân bản: Nơi ông trở về thật với mình, sống hết mình, yêu hết mình, nơi khởi nguồn của ngôn từ, của những giá trị làm nên chiều cao nhân cách của con người.
3.2.2 Núi
Qua tìm hiểu và khảo sát, chúng tôi thấy hình ảnh núi xuất hiện khá nhiều trong các tập thơ của Dương Thuấn (có thể nói là nhiều nhất so với các nhà thơ khác cùng chủ đề): 15 lần/33 bài trong tập Ði tìm bóng núi, 20 lần /52 bài trong tập Hát với sông Năng. Một nhà thơ Tày nổi tiếng viết về đề tài miền núi là Y Phương nhưng số lượng các sáng tác về có “núi” trong thơ ông có phần không dày đặc so với Dương Thuấn (20 bài/133 bài trong tập Thơ Y Phương). Điều này chứng tỏ cảm xúc về núi của Dương Thuấn vô cùng dồi dào và mãnh liệt.
Để thực hiện hành trình đi của mình, Dương Thuấn phải xa núi để ra với biển vì vậy hình ảnh núi trở về trong thơ Dương Thuấn luôn điệp trùng nỗi niềm, hồi ức. Nhà thơ như con chim của núi cao rừng thẳm luôn nhớ về tổ cũ dù đã ra sông ra biển nhưng không nguôi nhớ ngọn nguồn. Núi là gốc gác, bản chất mà suốt hành trình thơ và đời của Dương Thuấn, ông luôn đi tìm: “bóng núi”. Bóng ở đây nên hiểu là gì? Bóng là phần ảo, phần mộng hay là phần hồn , phần tính? hay là cả hai? Đi tìm bóng núi là tên tập thơ xuất bản năm 1993 của tác giả, toàn tập thơ là cuộc hành trình đi tìm cái đã xa, đã vuột khỏi tầm tay. Nhà thơ Dương Thuấn từng tâm sự: hành trình đi tìm bóng “bóng núi” của ông chính là hành trình tìm lại chính mình. Giã từ xứ núi, nghìn lạy mẹ, mẹ đẩy con xuống thác, con đi, giữa dòng đời, con lang thang, buồn nhớ đi tìm bóng núi ngày xưa. Đi tìm bóng núi là trở về ngọn nguồn dân tộc, trở về với bản sắc dân
tộc mình. Với Dương Thuấn, đi xa chính là trở về. Trở về để giữ lấy hồn vía của quê hương, để làm giàu nội lực cho thơ. Núi là bản quán, gốc gác của nhà thơ, là niềm tự hào, là tuyên ngôn nghệ thuật của ông:
Ta là chàng trai của núi
Ta chỉ biết nói lời cho quả sai
Núi trở thành nền tảng văn hóa vững chắc làm nên hồn thơ Dương Thuấn. Ý thức mình là con của núi rừng càng khiến thơ Dương Thuấn có sức neo trong tâm trí của người đọc nhiều hơn. Bởi chỉ cần một chút pha giọng Dương Thuấn sẽ đánh mất cái bản chất “núi” của mình. Hình ảnh “bóng núi” còn xuất hiện trong bài thơ tình nổi tiếng – một trong những thi phẩm làm rạng danh nhà thơ:
Bây giờ ngựa về tàu khác Một mình anh ôm câu hát Đi tìm bóng núi ngày xưa
…
Bây giờ em đã theo chồng Lên núi phát nương tra lúa
(Đi tìm bóng núi)
Cả bài thơ là tình yêu tuyệt vọng trong lặng câm. Suốt chiều dài tác phẩm chỉ có chàng trai với trái tim nhức nhối yêu thương đang ôm chặt mối tình si đã đi vào hoài niệm. Có một chữ “núi” ở đầu bài thơ và một chữ “núi” khi sắp kết thúc bài đủ để bạn đọc vỡ lẽ “bóng núi” ở đây là ai. “Bóng núi” không chỉ là bóng người thương cũ mà còn là cả một thế giới nội cảm, một cõi riêng mà chỉ cần thêm một mình em nữa là anh đủ đầy. Một chữ “núi” làm tan nát một trái tim, ngọn núi ấy giờ đã quá xa chỉ còn dành lại cho anh xót xa với cuộc đời. Từ chất liệu núi của thiên nhiên qua lăng kính chủ quan của nhà thơ đã tạo nên một biểu tượng núi tình. Bóng núi cũng là bóng hình, là bóng em vậy.
Nhà thơ Dương Thuấn rất tài tình với những khúc ca “Buộc hồn của núi với hồn ai”. Ai đã đọc thơ ông rồi sẽ thấy yêu hơn cuộc sống thực tại, yêu cõi nhân gian và cảnh đẹp thiên nhiên của quê hương ông mà không muốn trở về. Mỗi vần thơ đều có sức gợi nhiều liên tưởng. Một ngọn núi có tên là núi Cơm Chiều mà khơi gợi cả một miền ký ức dân tộc ông và nhân loại thuở xa xưa:
Núi Cơm Chiều cái tên mà như thế Hay là ngày xưa chưa có đồng hồ Ông bà nhìn bóng núi để thổi cơm…
(Núi Cơm Chiều)
Núi non ở đâu dữ dội chả biết, núi non trong thơ Dương Thuấn luôn đẹp một cách thánh thiện dù ở đó còn lắm đói nghèo, thiệt thòi:
Quê tôi núi ngàn mênh mông và cao rộng Sáng sớm mây trời bay trắng lòng thung Chiều về từng đàn mây vờn nhau trên cỏ…
Núi quấn quyện, bao bọc cuộc sống của người dân vùng cao: Nhà tôi dựng ở bên sông/ Buớc ra khỏi cửa là nhìn thấy núi. Cái hoang sơ, hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng thể hiện rõ nhất qua những ngọn núi sừng sững đồng thời sức mạnh của con người nơi đây cũng được ví với sức lớn lao, to cao của núi. Người con của núi rừng khi sinh ra được tắm nước sông, nước suối lớn lên ra đi thực hiện hoài bão được núi non chở che, ngóng chờ:
Thế rồi núi không còn mọc
Thế rồi chim phượng chẳng bay về Còn chúng tôi dần dần khôn lớn
Núi Chẻ Dạ ngóng lớp lớp người ra đi….
(Núi Chẻ Dạ)
Lớp lớp người bản Hon ra đi vì chí hướng, sự vật biến thiên, thời gian trôi chảy chỉ có núi Chẻ Dạ là còn đó, sừng sững như một nhân chứng thời
gian sau bao năm tháng dài mong ngóng mỏi mòn đứa con quê hương trở về. Núi Chẻ Dạ hay chính là tình cảm của những người ở lại, của cảnh vật, thiên nhiên quê hương hằng dõi theo mỗi bước đường trưởng thành của mỗi người con. Hình ảnh “Núi Chẻ Dạ ngóng lớp lớp người ra đi” như tạc vào thơ ca hình bóng người cha, người mẹ già có tên gọi – Quê Hương luôn dõi theo, đợi chờ đứa con mình xuống núi rồi sẽ quay về.
Núi gắn bó với người miền núi, mỗi lúc đi xa người ta lại tâm niệm một điều “Dù đi đâu cũng quay đầu về núi”. Phải chăng đó là khởi nguồn cho ra đi, hành hương và trở về:
3.2.3 Sông
Thuở bé tôi cứ tin
Sẽ có ngày núi mọc thêm một ngọn Sẽ có ngày chim phuợng lại bay về Tôi yêu chín mươi chín ngọn núi Âm thầm tôi đợi một ngày kia
(Núi Rồng núi Phượng)
Dương Thuấn có duyên nợ gì với những dòng sông khi mà chiếm đến hai trong số những tập thơ (gộp vào trong tuyển tập) của ông là thơ viết về sông: Hát với sông Năng và Đêm sông yên lặng? Rừng núi – nơi bắt nguồn của những con sông vì thế trong tâm thức người miền núi cách nghĩ về sông có nét khác với với nếp nghĩ của người miền xuôi. Sông với họ là mạch nguồn trong trẻo và quyết liệt chứ không đơn thuần là giao thông đi lại hay phục vụ cho canh tác nông nghiệp. Đặc trưng nông nghiệp của người miền núi không phải ở nơi cạnh sông hay những mảnh đất được bồi đắp từ phù sa màu mỡ. Từ đó mà mỗi lần gặp sông, cách ứng xử với sông của họ cũng khác các dân tộc ở vùng đồng bằng lưu vực các con sông hay duyên hải.
Với Dương Thuấn, dòng sông đã trở thành một tứ thơ ngầm. Chúng không lộ diện trong mọi lúc mà có khi lặn thật sâu, lại có khi bất ngờ hiện ra ở một miền đất lạ. Có nhiều dòng sông có tên có tuổi xuất hiện trong thơ Dương Thuấn như: Sông Năng, sông Nậm Na, sông Hồng, sông Thương… rồi cả có những con suối, có thác, hồ và sau này cả biển lớn nữa nhưng sông Năng vẫn là hình ảnh có sức ám ảnh với nhà thơ nhất. Tác giả đã tâm sự: “Sông Năng là dòng sông chảy qua bản Hon nơi tôi đã sinh ra, người bản Hon khi bắt đầu tập đi cũng là lúc được luyện cho tập bơi, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được tắm nước sông lúc lọt lòng, khi được hai tháng tuổi cha mẹ đã mang ra sông Năng để làm quen với nước… cho nên người bản Hon chúng tôi dù nam hay nữ cũng đều như vậy, biết đi cũng đồng thời với biết bơi. Và vì thế người quê tôi có quan niệm, ai đã sinh ra ở bản Hon sẽ không bao giờ bị chết đuối cũng như ở bản Hon sẽ không bao giờ có người chết đuối... Ai cũng chỉ tin một điều, người bản Hon thì “Ngã xuống sông không thể bị nước cuốn trôi. Rơi vào trong đống lửa không thể bị thiêu cháy”[50]
Những kỉ niệm và con sông Năng yêu dấu khi đã về công tác và sống ở thành phố Hà Nội, nhà thơ vẫn giữ và không nguôi thương nhớ:
Ơi con sông dài như giấc ngủ của rừng Bao khúc quanh co ghềnh thác ì ầm
Có chỗ lặng lờ cho bản làng soi bóng
Chị đi lấy chồng nơi khác vẫn nhớ dòng sông
Ví von dòng sông “dài như giấc ngủ của rừng” là một cách nói nghệ thuật đầy ấn tượng gây cho độc giả sự ám ảnh tâm hồn như là dòng sông Năng đã ám ảnh tâm hồn tác giả. Đến cả trong giấc mơ, nhà thơ cũng mơ thấy tiếng sóng của dòng sông. Tình yêu với dòng sông quê hương của ông đi qua bao tháng ngày cũng không hề vơi cạn, ông khao khát được trở về bên dòng sông tuổi thơ ấy. Trên hành trình của ông, dòng sông càng tràn đầy, càng bồi