Nữ Nhà Thơ Dân Tộc Mường- Bùi Thị Tuyết Mai

Song song với sự phát triển nhanh và mạnh về đội ngũ, số lượng, chất lượng tác phẩm của các nhà thơ nữ ngày càng nhiều và được nâng cao hơn. Nếu như thế kỉ XX của những năm 90 chúng ta biết đến Lối nhỏ (1998) của Dư Thị Hoàn, một vài tập thơ nhỏ lẻ của Vi Thị Thu Đạm, Hoàng Thị Cấp, Trần Thị Thu Nhiễu, Nông Thị Ngọc Hòa... thì đến những năm cuối cùng của thế kỷ này đã xuất hiện nhiều tập thơ của các tác giả đại diện cho các dân tộc khác nhau. Có thể kể đến một số tập thơ của các tác giả như Chu thùy Liên với Lửa sàn hoa (1998); Đóa hoa rừng của Hơ-vê; của Dư Thị Hoàn; Sông ngàn lau (2002) của Đoàn Ngọc Minh; Bế Mai Phương với Bài thơ cho cha (2003), Nông Thị Ngọc Hòa với Nước hồ mãi xanh (2004); Hoàng Thanh Hương có Tự cảm (2005); Đinh Mai Lan với Tiếng đàn đêm (2005); Nơi cất rượu (2005); Mường Trong (2006) của Bùi Thị Tuyết Mai; Lời cầu hôn của rừng (2008); Mùa trăng (2008) của Nông Thị Tô Hường; Hoàng Kim Dung với Khúc giao mùa (2008); Tạ Thu Huyền với Đầy vơi (2008); Phùng Thị Hải Yến với Thơ với bạn thơ (2012)...

Khoảng 30 năm trờ lại đây với sự phát triển mau lẹ, thơ DTTS đã tạo cho mình một mảng màu riêng biệt, một vẻ đẹp riêng độc đáo, góp phần làm phong phú thêm, đa dạng cho đời sống thơ ca dân tộc thiểu số, cho thơ nữ Việt Nam thời kì hiện đại. Đến thế kỉ XX xuất hiện nhiều tập thơ của các nhà thơ nữ dân tộc thiểu số ra mắt độc giả và có khá nhiều tập thơ được nhận Giải thưởng cao trong đời sống văn học Việt Nam. Điều này khẳng định sự đóng góp đáng quý và vị trí của nhưng cây bút nữ DTTS trong nền văn học DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại. Các tác phẩm được nhắc đến như Đóa hoa rừng của Hơ- vê (đạt Giải B của Hội nhà văn Việt Nam 1998); Bùi Thị Tuyết Mai có Mưa trong nhà (đạt Giải B của hội VHNT các DTTS Việt Nam 1998); Trầu đỏ môi ai (đạt Giải C của Văn học Hòa Bình 10 năm đổi mới); Đầy vơi của Tạ Thu Huyền (giải B giải thưởng VHNT Lào Cai 2001), giải Khuyến khích Giải thưởng Phan Si Păng 2002), Sông ngàn lau của Đoàn Ngọc Minh (đạt Giải Khuyến khích của hội VHNT các DTTS Việt Nam 2002); Nông Ngọc Hòa với Trước gương (đạt giải

C của hội VHNT các DTTS Việt Nam 1998, giải A của hội VHNT Phú Thọ 1995- 2000); Lời của lá (được tặng - giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2001, giải A của Hội VHNT Phú Thọ 2000- 2005); Vườn duyên đạt giải C Hội VHNT các DTTS Việt Nam 2002; Men qua cõi thiền Giải A của Hội VHNT các DTTS Việt Nam 2009; Tiếng đàn đêm của Đinh Thị Mai Lan (được giải B của Hội VHNT các DTTS Việt Nam 2007); Lời cầu hôn của rừng của Hoàng Thanh Hương (đạt giải B (không có giải A) của Hội VHNT các DTTS Việt Nam 2009 và giải C của Hội VHNT Lào Cai 2005- 2010) ...

Nội dung chính trong sáng tác mà các cây bút nữ DTTS thời kì hiện đại đề cập tới là: Phản ánh chân thành, sinh động hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống và con người đồng bào DTTS vùng cao qua từng giai đoạn lịch sử với những biến cố và thăng trầm của đất nước cùng với lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc trong thời đại mới.

Điều đầu tiên mà chúng ta nhận thấy trong các sáng tác của họ chính là tình yêu quê hương, đất nước, niềm tin tưởng và lòng trung thành và tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Nhắc đến điều này không thể không kể đến cây bút người Mông- Vừ Thị Dư đã có những câu thơ chân thật, tự nhiên khi ca ngợi lãnh tụ như: Nhờ mặt trời cộng với ánh trăng/ Soi sáng đất nước đêm ngày/ Nhờ Chính phủ và Hồ Chí Minh/ Lãnh đạo các dân tộc chúng mình/ Có mâm thịt đầy lại ca ngợi Đảng (Nhớ đến Chính Phủ). Nếu như nhà thơ Hoàng Diệu Tuyết (Tày) thể hiện sự biết ơn đối với Đảng đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xóa bỏ cách sống du mục của người dân: Nhà nhà vui no ấm/ Người người sống sum vầy/ Hạnh phúc trong tầm tay/ Bản định canh đổi mới/ Nhớ ơn Đẩng suốt đời (Thung lũng màu xanh) thì nhà thơ Bàn Thị Cúc (Dao) lại khẳng định vai trò to lớn của Đảng đã loại bỏ những hủ tục lạc hậu đeo bám trong cuộc sống hàng ngày của họ dó là hủ tục bắt con gái cạo trọc tóc (Mái tóc em) Hay Niê Phương (Ba Na) lại thể hiện sự xúc động trước tình cảm chân thành, gần gũi của các chiến sĩ bộ đội đã dạy họ cách đối đầu với kẻ

thù khi buôn làng có giặc tới : Họ được cụ Hồ cho cái đầu nở hoa sung/ Cái đầu ấy bày cho dân làng trồng khoai/ Thì khoai mau lớn/ Bày phụ nữ nuôi gà/ thì gà lợn mau to/ Cái đầu ấy chỉ dân làng cầm giáo đánh Tây/ Thì thằng Tây chạy trốn (Thương người cộng sản)...

Bên cạnh đó các cây bút nữ còn tập trung khắc họa bức tranh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và hiểm trở nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình cùng với vẻ đẹp tâm hồn con người miền núi mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền. Vậy điều gì đã thôi thúc các cây bút nữ hướng ngòi bút của mình để tạo nên những câu thơ hay về những cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống con ngời mang đậm vẻ đẹp của miền sơn cước như vậy? Phải chăng đó chính là tình yêu tha thiết đối với quê hương, xứ sở? Đúng vậy, nguồn cảm hứng mãnh liệt trong các sáng tác của các cây bút nữ đó chính là viết về quê hương xứ sở- nơi họ được sinh ra và lớn lên, gắn bó máu thịt với núi rừng, nương rẫy, sông suối...thân yêu, đồng thời họ đã thể hiện được niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc và ý thức bảo tồn gìn giữ phát huy những giá trị truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa miền núi vào trong các trang thơ của mình. Dù đi đâu, về dâu thì quê hương luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong mỗi trái tim của mỗi nhà thơ, để họ có thể hát lên những khúc ca về quê hương yêu dấu của mình. Ví dụ như Nông Thị Ngọc Hòa với những câu thơ: Bậc ruộng ngô lúa xanh non/ Nhà sàn ra vào không cúi/ Thoáng đãng bốn bề gió thổi/ Cho rừng cho núi mơ trăng (Bậc thang); hay trong bài Mùa hoa mận của Chu Thùy Liên: Cành mận bung trắng muốt Nhà trình tường ủ hương xôi nếp/ Giục lửa hồng nở hoa trong bếp/ Cho người đi xa nhớ lối trở về; Hoặc những câu thơ tràn đầy hương vị miền núi của Phùng Thị Hải Yến: Con về.../ Bập bùng bên bếp lửa dáng mế yêu/ Dấu hỏi oằn in trên vách nứa/ Mùi cá nướng cơm lam vừa chín/ Vị quê hương hóa mặn/ Hay giọt nước mắt con lăn trên núi quê mình (Vị Quê).

Bên cạnh đó, hình ảnh con người miền núi cũng đã đi sâu vào trong các sáng tác với những phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống của các DTTS như: hiền lành, thơ mộc, cả tin, nhưng cũng rất tài hoa, mạnh mẽ, dũng cảm.

Họ là ai? Họ chính là những người cha, người mẹ miền núi luôn lo toan, vất vả, chịu thương, chịu khó không quản gian khó để chăm nuôi gia đình với những đứa con: Bóng mế còng lưng trảy ngô/ Cỗi cằn dốc đá/ Gùi lúa chín trên lưng/ Chở bao nhiêu mồ hôi nước mắt/ (Vị quê- Phùng Hải Yến); Vết chai tay dày thêm/ lưng cha thì còng xuống/ Đường cày thì phẳng/ Đời cha gập ghềnh (Lời cha- Bàn Kim Quy); Ngủ đi/ Đôi chân quen leo dốc ngược (Ru con- Bùi Thị Tuyết Mai); Họ còn là những cô gái xinh đẹp, dịu hiền, đảm đang, tháo vát mang vẻ đẹp khỏe khoắn đầy tính phồn thực: Lũ con gái ngực như quả núi (Bụng ta đỏ lửa- Sầm Nga Di); Bàn tay ta ngày ngày/Vun vén chồng con/ Đệm ấm chăn êm/ Rau mềm cơm rẻo/ Mặn mà như suối (Thuổi chéo -Tòng Thị Hân)...

Có thể thấy, với tình cảm yêu mến và lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của những người phụ nữ thì thiên nhiên và cuộc sống con người miền núi được phản ánh sinh động và rõ nét qua sáng tác của các cây bút nữ trong thời đại mới. Qua các sáng tác, họ đã góp phần lưu giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc vùng cao; đồng thời họ cũng đã thể hiện những tâm tư, tình cảm, những khát khao, những niềm vui, nỗi buồn của người phụ miền núi. Dường như chất dân tộc luôn in rõ trên từng trang viết, từng câu thơ của họ. Ta có thể bắt gặp nhiều bài thơ như thế: Chợ tình, Dặn con ngày đi làm dâu, Hoa hạ (Hoàng Thanh Hương); Tiếng mẹ (Thu Bình); Chiếc khèn tình, lá bùa yêu (Phùng Hải Yến); (Bụng ta đỏ lửa- Sầm Nga Di;, Lửa sàn hoa, Chiều Nậm Rốn (Chu Thùy Liên); Chàng trai đa tình (Nông Thị Tô Hường); Tiếng bọng, Phiên chợ rẻo cao (Đoàn Ngọc Minh); Có một miền quê, Tìm lại tuổi thơ (Nông Thị Ngọc Hòa); Mường trong, Nương quê tôi,Mùa yêu, Những người đàn bà (Bùi Thị Tuyết Mai); Hoàng Kim Dung với Thêu áo, Khèn lá Con trai bản Sài, Nơi ấy sắc chàm (Mã Thị Hà)...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Một đặc điểm nữa không thể không nhắc đến trong các sáng tác của các nhà thơ nữ, đó chính là mảng thơ viết về chủ đề tình yêu. Tình yêu trong thơ nữ

DTTS được thể hiện với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau song họ đều có điểm chung là sự khao khát được yêu; và khi yêu- họ đã yêu một cách chủ dộng, mãnh liệt, nồng nàn, cháy bỏng và hết mình cho tình yêu. Họ khao khát vượt qua cái hữu hạn của trời đất, của đời người để đi đến tận cùng hạnh phúc tình yêu. Cũng giống như thơ tình yêu của các nhà thơ nữ nói chung đó là những mối tình đẹp nhưng dang dở, chia li; Họ hay viết về những hoài niệm, kí ức và ước mơ về một tình yêu chung thủy, hạnh phúc; cùng với những dự cảm, ám ảnh về sự phai tàn đổ vỡ của tình yêu theo thời gian... Tuy nhiên điều làm nên một hương vị khác trong thơ tình yêu của các cây bút nữ DTTS chính là sự chủ động, táo bạo, mạnh mẽ, quyết liệt mang tính bản năng với những cảm xúc tự nhiên, chân thực, mãnh liệt, không dấu giếm cảm xúc... trước người đàn ông của đời mình. Điều đó được thể hiện sinh động từ tình yêu lứa đôi cho đến tình cảm vợ chồng với những cảm xúc riêng tư mãnh liệt nhất đều được thể hiện một cách rất hồn nhiên, tự nhiên: Ấy ơi cho ta leo ngược dốc/ Cho ta về làm con ngựa tốt nhà em (Ấy ơi- Nông Thị Ngọc Hòa); Có phải em giận anh?/ Tim cồn cào im lặng/ anh có hay trong mắt/ Ngọn lửa khát khao tình (Tự tình với hoa- Bế Phương Mai; Đó là sự chủ động dâng hiến, nồng nàn cháy bỏng khi trao gửi yêu thương cho nhau : Ta sẽ dâng hiến cho mình sự căm thù/ Bằng vị ngọt ấm mềm/ Dịu dàng bóng tối và trinh trắng ban mai/ Ta sẽ trao mình thuốc độc và gai/ Trọn đôi bầu ngọc (Khi mỗi đau nằm xuống- Bùi Thị Tuyết Mai); Tình yêu thường gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách, tuy nhiên nỗi nhớ đó được thể hiện một cách mộc mạc, tự nhiên có thể đong, đo, đếm được theo cách cảm, cách nghĩ của người miền núi: Em nhớ đầy cả đêm/ Em thương sáng cả ngày/ Nhiều như cái sao, cái lá/ Cao như cái núi, cái đồi (Thương nhớ lắm- Nga Rivê); Ngoài ra trong các sáng tác của các cây bút nữ dân tộc thiểu số trong thời gian gần đây đã có nhiều sáng tạo cùng với những cảm nhận mới lạ, táo bạo về đề tài tình yêu như thơ của Hoàng Thanh Hương, Đinh Thị Mai Lan, Bế Phương Mai, Bùi Thị Giáng Hương, Hà Thị Hải Yến, Đàm Thị Hải Yến, Mã Thị Hà... Ví dụ như những câu thơ sau: Em/ Người

Thơ Bùi Thị Tuyết Mai - 3

đàn bà hóa diệm sơn/ Yêu và sống nhiệt cuồng như mai là tận thế (Em- Hoàng Thanh Hương); Đêm của riêng trai gái/ Tìm nhau mắt bỏng như than/ Bị phụ tình con gái tim lá ngón/ Có tiếc chăng mùa xuân (Xa- Mã Thị Hà); Đã trùm áo/ đã hơi bén hơi/ Mình đi dâu ta di theo đấy/ Mình làm núi, ta làm hang/ Mình làm tơ, ta làm kén/ Mình làm trăng, ta làm mây quấn (Người đứng trông- Bùi Thị Giáng Hương)....

Ngoài ra, các nhà thơ nữ DTTS luôn có ý thức khẳng định vai trò, vị trí của mình trong quá trình hội nhập của dân tộc mình trong đời sống thời hiện đại của đất nước ngày hôm nay. Trước hết đó là quá trình hội nhập với cộng đồng dân tộc Việt Nam, với xã hội Việt Nam thời hiện đại. Các cây bút nữ không tách rời mình ra khỏi cuộc sống của người miền xuôi (kể cả cuộc sống khi đô thị mở cửa). Điều đó được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ trẻ. Nếu trong bài thơ Phố (Niê Phương) đã thôi thúc mình và những người cùng thế hệ dũng cảm, mạnh dạn bước vào cuộc sống thời hội nhập: Đi đi em/đi đi/ Mang hình em vào phố/ Chìa cả bàn tay em sần sùi vào phố/ Và lớn lên cùng phố/ Phố không muốn nuốt chửng em đáu/ Bởi phố trú dưới vòm trời rộng lắm/ Mà ở đâu dưới vòm trời cũng có mái nhà cho cả em, anh. Thì Bùi Thị Tuyết Mai xuống phố nhẹ nhàng mùi hương hoa sữa, bóng chim xanh, bóng chú mèo yểu điệu và hoài niệm về một thời đã xa: Một mùi thơm hoa sữa thoảng qua/ Tóc thơm xưa trân phố/.../ Bóng con chim xanh đi về ngoại ô (Trân phố). Họ thực sự chủ động đón nhận cái mới bằng cách tự vươn lên để hòa nhập vào cuộc sống mới văn minh hiện đại mà không đánh mất bản sắc riêng vốn có của dân tộc mình- nếu như không muốn bị bỏ lại. Họ đã nhập cuộc thành công vào cuộc sống hiện đại, mở của hôm nay. Chính vì thế, thơ của họ không còn “quanh quẩn” ở các đề tài về bản làng nữa mà thực sự đã “rất phố” rồi!

Một phương diện nữa phải kể đến đó là phương diện nghệ thuật trong các sáng tác của các cây bút nữ. Thơ của họ vừa có tính hiện đại (trong cách diễn đạt, trong lối tư duy) vừa vẫn giữ được những nét riêng, mang đậm bản sắc dân

tộc, nên nó “vừa lạ, vừa quen”, vừa truyền thống- vừa hiện đại, vừa mộc mạc, giản dị nhưng cũng mới mẻ, sâu sắc. Ngoài ra họ còn rất sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ. Đó là thứ ngôn ngữ vừa mộc mạc, giản dị, gần gũi, giàu chất biểu cảm, giàu chất tạo hình nên đã tạo nên một nét riêng, độc đáo, lôi cuốn và hấp dẫn độc giả. Các nhà thơ nữ DTTS đã sử dụng khéo léo các từ ngữ giàu giá trị biểu cảm (như các từ tượng thanh, tượng hình, từ láy…); đã vận dụng hiệu quả các biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ…). Vì thế, họ đã xây dựng được những hình ảnh thơ mới lạ, bất ngờ, giản dị mà tinh tế. Có thể nhắc đến một số câu thơ như: Nội tôi/ Cổ thụ cao nguyên/ Rễ cây xòe nếp trán/ (Nụ cười của đá- Phùng Hải Yến); Hay Hoa mận trắng hay mây bay xuống chợ/ Mùa mưa dầm thấp thỏm bước chân trâu (Có một miền quê- Nông Thị Ngọc Hòa); Em nhớ anh/ Cứ nhấp nha nhấp nhổm/ Như có kiến cắn tim/ Như có lửa đốt bụng (Thương lắm nhớ nhiều- Hơ-vê); Ơ này con gái Mường Bi/ Da trắng của bông, tóc dài của núi/ Dáng thon mềm chuốt tiếng chuông ngân (Nhớ Mường - Tạ Thu Yên)…

Tóm lại, qua những khảo sát về những đặc điểm của thơ nữ DTTS thời kỳ hiện đại, chúng tôi nhận thấy thơ của họ dường như cũng mang những đặc điểm của thơ ca DTTS nói chung, nhưng họ còn có lối suy nghĩ, lối diễn đạt riêng của phái nữ. Họ thiết tha, ý nhị, kín đáo, không tả nhiều, cũng không nói đến những vấn đề mang tầm vóc lớn lao của đất nước- mà chỉ đề cập tới những điều nhỏ bé, đời thường nhưng lại chạm được vào trái tim của độc giả. Các sáng tác của các nhà thơ nữ DTTS thời kì hiện đại cũng có những điểm khác nhất định so với thơ của các nhà thơ nữ người Kinh. Nếu các tác giả thơ người Kinh chiếm ưu thế và thành công với những bài thơ tình ngọt ngào, sâu lắng, với lối diễn đạt sâu sắc, ý nhị, kín đáo thì khi đọc các bài thơ của các cây bút nữ miền sơn cước thì ta lại bắt gặp nét mộc mạc, giản dị, hồn nhiên trong từng câu thơ; đặc biệt là cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt của người miền núi đã đem lại sức hấp dẫn riêng cho

người đọc.

Riêng một số nhà thơ nữ DTTS trẻ chịu ảnh hưởng của các xu hướng thơ hiện đại và hậu hiện đại nên đã có những nét phá cách và có nhiều thể nghiệm mới mẻ. Thơ của họ là tiếng nói của thế hệ mới- với những tận hiến và tận hưởng những vang âm của đời sống. Họ không muốn chỉ là người biểu hiện cuộc sống trên trang viết mà còn muốn tạo dựng, phơi mở một thế giới khác trong chính thế giới hiện thực hôm nay. Tâm hồn thi ca của họ luôn rung lên những nhịp cảm xúc nóng bỏng, rất riêng tư với những khao khát đời thường. Họ đang cố gắng tạo dựng cho mình một phong cách mới, khẳng định vai trò, vị trí của mình trong dòng chảy của thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca hiện đại Việt nam nói chung (ví dụ trường hợp thơ Vi Thị Thùy Linh), nhưng đây không phải là xu thế chung của các nhà thơ trẻ DTTS . Hầu hết họ vẫn là những nhà thơ đại diện cho tiếng nói tam hồn của những những người phụ nữ miền núi: hiền lành mà mạnh mẽ; mộc mạc, chân thật mà ý nhị, duyên dáng; đảm đang, khéo tay nhưng cũng rất lãng mạn, bay bổng.

1.2. Nữ nhà thơ dân tộc Mường- Bùi Thị Tuyết Mai

Trong những năm qua, văn học nghệ thuật dân tộc Mường nói riêng, vănhọc nghệ thuật dân tộc thiểu số nói chung, đã có những góp đáng kể vào sựnghiệp phát triển chung của văn học nghệ thuật các dân tộc Việt Nam. Từ nhữngchất liệu văn hóa văn học dân gian phong phú của người Mường như: sử thi Đẻ

đất đẻ nước, truyện thơ Út Lót- Hồ Liêu, Nàng Nga- Hai Mối hay các bài mo,các bài dân ca (xường, rang, ví dúm...) đã có sức ảnh hưởng lớn đến các sáng táccủa các nhà văn nhà thơ người Mường hiện nay. Các nhà thơ Vương Anh, HàTrung Nghĩa, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi Thị Tuyết Mai... đã có những sáng tác phảnánh chân thực, sinh động cuộc sống, con người vùng cao với những nét văn hóađậm bản sắc Mường. Nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai là một trong các nhà thơ Mườngtiêu biểu đó.

Nhà thơ Bùi Tuyết Mai tên đầy đủ là Bùi Thị Tuyết Mai dân tộc Mường,sinh năm 1971, tại Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình. Là người con của dân tộc Mường,

Ngày đăng: 02/02/2023