trạng các cổ phiếu đang nắm giữ trong danh mục của mình để quyết định giữ lại hay bán đi một cách thích hợp.
- Khi tiến hành tự doanh chứng khoán, công ty chứng khoán không được:
+ Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của CTCK.
+ Đầu tư trên 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết.
+ Đầu tư trên 15% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức chưa niêm yết.
+ Đầu tư hoặc góp vốn trên 15% tổng số vốn góp của một công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Trường hợp CTCK vượt quá các hạn mức quy định nêu trên thì bị xử lý theo quy định pháp luật hiện hành.
3.2. Nghiệp vụ tư vấn
3.2.1 Khái niệm hoạt động tư vấn
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiệp Vụ Môi Giới Tại Thị Trường Phi Tập Trung
- Rủi Ro Trong Nghiệp Vụ Môi Giới Chứng Khoán
- Nghiệp Vụ Tự Doanh Chứng Khoán (Hay Nghiệp Vụ Đầu Tư Chứng Khoán)
- Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán Phần 1 - Thái Bá Cẩn - 11
Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.
Có rất nhiều loại hình hoạt động nghiệp vụ tư vấn khác nhau như tư vấn pháp luật, tư vấn đầu tư nước ngoài, tư vấn y tế…, và khi thị trường chứng khoán bắt đầu ra đời tại Việt Nam năm 1999 chúng ta có một khái niệm mới tư vấn chứng khoán. Cũng như các hoạt động tư vấn khác, nội dung của hoạt động tư vấn chứng khoán là đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng.
Đối với các loại hình tư vấn khác, như tư vấn pháp luật thì tính chính xác của lời khuyên là cần thiết và có khả năng diễn ra đúng với thực tế. Tuy nhiên đối với hoạt động tư vấn chứng khoán, do đặc điểm riêng của ngành là giá cả thường luôn biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là với hoạt động này, các nhà tư vấn có thể gây ra các hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán- việc này có thể do khả năng của họ hoặc do họ cố tình gây hiểu lầm để kiếm lợi. Do vậy, đây là một hoạt động nghiệp vụ cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định trong khi thực hiện công việc.
Có thể định nghĩa, tư vấn chứng khoán là những hoạt động tư vấn về giá trị của chứng khoán nhằm mục đích thu phí. Như vậy, họ quan niệm rằng chỉ có những hoạt động tư vấn có thu mới là đối tượng quản lý, còn những lời khuyên đưa ra không có mục đích ấy sẽ không phải là đối tượng quản lý, trừ phi đó là những lời khuyên thất thiệt nhằm lũng đoạn thị trường và kiếm lợi cho bản thân. Việc quản lý các hoạt động tư vấn là cần thiết nhưng lại vô cùng khó khăn trong điều kiện ban đầu, khi các hoạt động kinh doanh chứng khoán chưa đi vào quy củ, hệ thống pháp luật chưa chặt chẽ.
3.2.2 Phân loại hoạt động tư vấn:
Hoạt động tư vấn được phân loại theo một số tiêu chí sau:
3.2.2.1 Phân loại theo hình thức của hoạt động tư vấn:
- Tư vấn trực tiếp: Khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax…, để hỏi ý kiến.
- Tư vấn gián tiếp: Là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa thông tin lên những phương tiện truyền thông như Internet, báo chí, truyền hình … để bất kỳ khách hàng nào cũng có thể tiếp cận nếu muốn.
3.2.2.2 Phân loại theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn
- Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng.
- Tư vấn ủy quyền: Với nghiệp vụ này, nhà tư vấn tư vấn và quyết định hộ khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng
3.2.2.3 Phân loại theo đối tượng của hoạt động tư vấn
- Tư vấn cho người phát hành: Hoạt động tư vấn cho người phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành hay giúp công ty phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp nhập với công ty khác.
- Tư vấn đầu tư: Là hoạt động tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị trường.
Các cách phân loại hoạt động tư vấn như vậy đan xen vào nhau và làm nên tính phong phú của hoạt động này. Muốn đi sâu hơn vào từng hoạt động ta có thể đi theo cách phân loại thứ ba, từ đó có cái nhìn tổng quan đối với toàn bộ nghiệp vụ.
3.2.3 Điều kiện và nguyên tắc của hoạt động tư vấn
- Điều kiện về vốn và nhân sự
Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu biết nên các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với hoạt động này không lớn, lượng vốn với hoạt động này chỉ cần đủ để duy trì các hoạt động bình thường của công ty như thuê văn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khác… Ở Việt Nam, theo nghị định 48, vốn pháp định với hoạt động này là 10 tỷ. Với nhiều nước phát triển như Mỹ, do tính chất của nghiệp vụ này, các công ty chuyên hoạt động tư vấn phải là các công ty trách nhiệm vô hạn, tức là các tổ chức theo hình thức doanh nghiệp tư nhân hay phổ biến hơn là công ty hợp danh. Tuy nhiên ở nhiều nước đang phát triển, các công ty này vẫn có thể là các công ty trách nhiệm hữu hạn.
Tuy các điều kiện về vốn đối với một công ty tư vấn không lớn nhưng những yêu cầu về nhân sự lại rất chặt chẽ. Những người làm công tác tư vấn phải có kiến thức chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực của mình. Riêng đối với ngành chứng khoán, họ phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với các yêu cầu cao hơn những người chỉ làm môi giới thông thường. Những yêu cầu này có thể bao gồm các loại bằng cấp như tối thiểu phải tốt nghiệp đại học và phải vượt qua một số kỳ thi do ngành chứng khoán tổ chức. Thường đó là kỳ kiểm tra của hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán nên để xây dựng thị trường, Ủy ban chứng khoán nhà nước sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm đào tạo nhân lực cho ngành chứng khoán thông qua trung tâm đào tạo của mình.
- Nguyên tắc
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thể làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra
những lời bình luận vể giá trị của các loại chứng khoán; nếu người đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ những lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ tìm các nhà tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi thường. Do vậy, khi hành động, nhà tư vấn cần đặt ra và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, tối thiểu như sau:
Thứ nhất: Không đảm bảo chắc chắn về giá trị của chứng khoán; giá trị của chứng khoán không phải một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế và tâm lý. Giá trị của chứng khoán là tổng hợp quan niệm của các nhà đầu tư về loại chứng khoán đó, do vậy nó cỏ thể thay đổi liên tục cùng với những thay đổi trong nhận định của các nhà đầu tư.
Thứ hai: Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó.
Thứ ba: Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách lô gic, khoa học.
Những nguyên tắc này rất đơn giản nhưng lại rất khó thực hiện. Khi một nhà môi giới thực hiện hoạt động của mình, họ có thể sẽ phạm phải một số sai lầm kể trên và đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn giữa khách hàng với nhà môi giới đó.
3.2.4 Các loại nghiệp vụ tư vấn
3.2.4.1 Tư vấn tài chính (tư vấn cho người phát hành)
Đây là một mảng hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu tương đối cao cho công ty chứng khoán, song song với mảng hoạt động tư vấn đầu tư. Hoạt động này được thực hiện tốt sẽ góp phần hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp và tạo ra những loại hàng hóa có chất lượng cao trên thị trường. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải ký hợp đồng với tổ chức được tư vấn và liên đới chịu trách nhiệm về nội dung trong hồ sơ xin niêm yết. Hoạt động này tương đối đa dạng bao gồm:
+ Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp: Nhà tư vấn chứng khoán là chuyên gia đánh giá về tình hình tài chính doanh nghiệp, họ phân tích các loại chứng khoán chủ yếu bằng phương pháp đánh giá tình hình tài chính của người phát hành đó. Do vậy việc phân tích tài chính của các nhà tư vấn sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức đúng được chính mình, từ đó có các biện pháp cải thiện tình hình
+ Xác định giá trị doanh nghiệp: là việc định giá các tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp trước khi chào bán chứng khoán. Đây là một công việc đầy khó khăn, phức tạp. Xác định giá trị doanh nghiệp là khâu quan trọng trước khi phát hành chứng khoán vì nó dùng để định giá chứng khoán phát hành, đặc biệt là khi doanh nghiệp mới phát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu. Thông thường trước khi cùng doanh nghiệp thống nhất định giá, các công ty chứng khoán sẽ thăm dò tình hình thị trường, tìm hiểu sự quan tâm và quan điểm giá cả của những người mua tiềm năng đối với loại chứng khoán đó.
+ Tư vấn về loại chứng khoán phát hành: Tùy theo điều kiện cụ thể mà xác định doanh nghiệp đó nên phát hành cổ phiếu hay trái phiếu.
Nếu phát hành cổ phiếu thì cần phải theo dõi thái độ của các cổ đông hiện thời vì tỷ lệ sở hữu của họ có thể bị giảm đi trong doanh nghiệp. Tuy nhiên tỷ lệ sở hữu chỉ có ảnh hưởng với với những cổ đông đang nắm quyền kiểm soát. Còn với những người coi cổ phiếu chỉ đơn giản là một khoản đầu tư thì lại vui mừng vì điều này. Nếu cổ phiếu của một doanh nghiệp phát hành rộng rãi cho công chúng thì công ty sẽ thu được nhiều điều lợi và bản thân các cổ đông cũng có lợi không ít. Khi cổ phiếu được phát hành rộng rãi thì thông thường giá cả của chúng tăng lên, đồng thời lại có một thị trường cho cổ phiếu đó, giúp những người đầu tư có thể thu hồi vốn dễ dàng bằng cách bán lại cổ phiếu của mình.
Nếu phát hành trái phiếu thì việc xác định mức độ tín nhiệm là công việc bắt buộc. Các nhà tư vấn có thể giúp doanh nghiệp xác định mức tín nhiệm trên cơ sở khả năng trả nợ. Các công ty có mức tín nhiệm càng cao càng có khả năng phát hành trái phiếu với lãi suất thấp và dễ dàng thu hút những người đầu tư.
Quá trình xác định mức độ tín nhiệm là một quá trình phức tạp. Nhà tư
vấn phải xem xét mọi khía cạnh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, nhất là các dòng tiền thu nhập, tính ổn định của các dòng thu nhập này. Việc xem xét còn phải dựa vào quá khứ và triển vọng tương lai của doanh nghiệp. Vì việc xác định mức độ tín nhiệm có liên quan rất lớn đến chi phí vay vốn của các doanh nghiệp nên uy tín của các nhà tư vấn là vô cùng quan trọng. Người ta chỉ tin theo những nhà tư vấn có uy tín, có kinh nghiệm và luôn luôn nhìn nhận sự việc một cách khách quan. Một sự đánh giá sai lệch của nhà tư vấn sẽ làm cho thị trường có cách nhìn không đúng về một nhà phát hành, về một loại chứng khoán nào đó, và có thể dẫn đến những diễn biến không tốt trong tâm lý của các nhà đầu tư.
Tư vấn tái cơ cấu nguồn vốn: Khi một doanh nghiệp nhận thấy hay thông qua quá trình tư vấn mà nhận thấy cơ cấu vốn của mình không phù hợp với các điều kiện kinh doanh hiện tại, không phù hợp với ngành nghề của mình thì họ sẽ tìm cách tái cơ cấu nguồn vốn để nâng cao hiệu quả và đảm bảo kinh doanh an toàn. Trong trường hợp này công ty chứng khoán là đối tác thích hợp vì nó là nhà chuyên môn trong lĩnh vực tài chính.
Tư vấn hợp nhất doanh nghiệp: Khi một doanh nghiệp muốn thâu tóm doanh nghiệp khác hay hợp nhất với một doanh nghiệp khác, họ sẽ tìm đến một công ty chứng khoán để nhờ trợ giúp các vấn đề kỹ thuật, phương pháp tiến hành thế nào là phù hợp và đỡ tốn kém chi phí, cách thức cơ cấu nguồn vốn sau khi sáp nhập. Ở các nước, hoạt động tư vấn rất phát triển vì nó xuất phát từ nhu cầu thực tế của hoạt động kinh doanh.
3.2.4.2 Tư vấn đầu tư chứng khoán :
Trong thế giới tiền tệ, kiếm tiền và tiêu tiền là hai mặt của một vấn đề mà mỗi tác nhân trong nền kinh tế, từ mỗi cá nhân cho đến hộ gia đình, từ các doanh nghiệp cho đến chính phủ đều phải đối mặt. Và khi nguồn thu hiện tại chưa được tích lũy đủ lớn để tài trợ cho các chi tiêu dự kiến trong tương lai, vay mượn hoặc tiết kiệm tiền và tìm cách đầu tư để làm sinh sôi nảy nở số tiền tiết kiệm là hai phương cách được sử dụng phổ biến để giải quyết tình trạng mất cân bằng giữa dòng thu nhập hiện tại và chi tiêu trong tương lai của các chủ thể
trong nền kinh tế.
Ở góc độ cá nhân, từ khi thị trường chứng khoán xuất hiện, đầu tư là cách được ưa chuộng hơn vì trong thực tế ngày càng có nhiều người sinh sống chủ yếu dựa vào các khoản lợi tức thu được từ các khoản đầu tư chứng khoán. Vấn đề ở chỗ, do khuynh gướng lây lan tâm lý, khi đầu tư chứng khoán trở nên là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn, ngày càng có nhiều người gia nhập thị trường thì nhà đầu tư phải có hiểu biết sâu sắc về đầu tư. Dĩ nhiên, khi ngày càng có nhiều nhà đầu tư liên tục bị kẹt vốn hoặc bị mất khả năng thanh toán thì tư vấn đầu tư có lý do để được chấp nhận như một nghề chính thức.
Trước hết, đầu tư cần dịch vụ tư vấn bởi kiểm tiền từ đầu tư là một công việc dễ dàng. Bạn có thể thắng trong phiên giao dịch này nhưng lại có thể mất trong các phiên giao dịch sau đó. Do đó điều kiện cần để trở thành các nhà đầu tư thành công là phải có kinh nghiệm hoặc ít ra là học tập kinh nghiệm từ chỉ dẫn của các nhà tư vấn.
Đầu tư cần dịch vụ tư vấn bởi vì mặc dù có rất nhiều nguồn thông tin tài chính có sẵn nhưng không phải ai cũng có thời gian và kinh nghiệm để phân tích và tự mình đưa ra các quyết định đầu tư.
Đầu tư cũng cần tư vấn bởi vì có rất nhiều sản phẩm đầu tư khác nhau cho các mục đích đầu tư khác nhau để lựa chọn. Về thực chất, đầu tư chính là quá trình quyết định phân bổ tiết kiệm vào các lớp tài sản khác nhau. Do mỗi lớp tài sản lại bao gồm các chứng khoán có những đặc tính rủi ro, thu nhập và kỳ hạn khác nhau nên điều kiện cần khác của tư vấn đầu tư là kiến thức vì không ai có thể giỏi hết mọi thứ cả.
Đầu tư cũng rất cần tư vấn vì tồn tại rất nhiều phong cách đầu tư khác nhau và mỗi một phong cách lại thích hợp với các lứa tuổi, cá tính, nghề nghiệp, giới tính khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Có người thích đầu tư theo kiểu đầu cơ giá lên nên kỹ thuật đầu tư của họ là mua, nắm giữ và chờ cho giá lên để bán. Ngược lại cũng có nhiều nhà đầu tư thích áp dụng kỹ thuật đầu cơ giá xuống. Đặc trưng của kiểu đầu tư này là bán trước chứng khoán chưa thuộc sở hữu của mình sau đó mua lại chứng khoán này với hy vọng rằng tại
thời điểm mua lại, giá chứng khoán này sẽ giảm và do đó sẽ kiếm lời.
Tất cả những lý do trên khiến dịch vụ tư vấn đầu tư trở nên có chỗ đứng trên thị trường tài chính. Và ngày nay, sản phẩm của dịch vụ tư vấn trải dài từ tư vấn chung, tư vấn đại cương, tư vấn bằng lời cho đến tư vấn bằng các báo cáo phân tích và khuyến nghị chi tiết, cụ thể bình luận về nền kinh tế, các sự kiện hiện hành, biến động của thị trường và từng loại chứng khoán.
Điều kiện cần đối với người tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư là một khoa học và cũng là một nghệ thuật. Để có thể tư vấn cho khách hàng, điều quan trọng là bạn phải am hiểu về nghệ thuật đầu tư, phải thấy được cơ hội kiếm tiền khi người khác chưa thấy, phải tìm được ra nhiều giải pháp tài chính khác nhau để giải quyết các vấn đề tài chính. Vì vậy nên người tư vấn phải chuẩn bị một nền tảng kiến thức tài chính vững vàng.
Nói chung theo kinh nghiệm của nhiều nhà tư vấn đầu tư chuyên nghiệp, kiến thức tài chính được xây dựng và hình thành trên bốn nền tảng hay bốn điều kiện chủ yếu là am hiểu kế toán, kinh nghiệm đầu tư, hiểu biết về thị trường và am hiểu về pháp luật
Điều kiện cần đầu tiên là bạn phải am hiểu kế toán.
Các báo cáo tài chính giúp các nhà đầu tư hiểu rõ tình trạng tài chính của một doanh nghiệp. Để đọc và hiểu được báo cáo tài chính, nhà tư vấn phải được trang bị các kiến thức về kế toán để có thể nhận biết điểm mạnh, mặt yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào để chọn lựa hoặc tư vấn cho khách hàng lựa chọn.
Điều kiện cần thứ hai là kinh nghiệm đầu tư
Con đường đi đến sự thành công trong lĩnh vực đầu tư chính là học hỏi, tích lũy kiển thức, trau dồi kinh nghiệm, nghiên cứu để xây dựng một triết lý đầu tư phù hợp; đồng thời tìm kiếm một hay nhiều chiến thuật, chiến lược đầu tư hiệu quả. Bạn phải biết những chiến lược đầu tư khôn ngoan để có thể kiếm tiền một cách dễ dàng. Nếu không có một triết lý đầu tư chủ đạo, một hệ thống các tiêu chuẩn đầu tư khôn ngoan, bạn sẽ chạy theo đám đông hoặc mua bán theo cảm tính hoặc tin đồn.
Điều kiện cần thứ ba là sự hiểu biết về thị trường
.....