- Bá ngọ con ong bé cái lầm
- Đét dồn lên đánh cuộc cờ người...
Hồ Xuân Hương sử dụng lối nói ỡm ờ, lấp lửng:
- Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
- Chúa dấu vua yêu một cái này
- Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
- Đá kia còn biết xuân già dặn
- Chả trách người ta lúc trẻ trung
Nói úp mở:
Có thể bạn quan tâm!
- Hình Tượng Thiên Nhiên Mang Vẻ Đẹp Phồn Thực, Đầy Nữ Tính.
- Hệ Thống Từ Ngữ Thể Hiện Thiên Tính Nữ
- Sử Dụng Thành Ngữ, Tục Ngữ, Ca Dao
- Thiên tính nữ trong thơ Nôm truyền bản của Hồ Xuân Hương - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
- Vị gì một chút tẻo tèo teo
- Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
- Thịt da đâu cũng thế mà thôi
- Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
- Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi...
"Nếu như Nguyễn Du đã mượn thể lục bát của dân gian hoàn thiện và đưa nó lên đỉnh cao của ngôn ngữ bác học, Đoàn Thị Điểm và Nguyễn Gia Thiều hoàn thiện thể song thất lục bát, bà Huyện Thanh Quan đã hoàn thiện thể thơ Nôm Đường luật thì Hồ Xuân Hương không những đã hoàn thiện chúng mà còn sáng tạo ra một loại thơ Đường luật mới". [28, tr.95]. Đó không chỉ là giới hạn ở sự Việt hóa thể thơ Trung Quốc mà điều quan trọng là trong quá trình sử dụng và đưa chữ Nôm vào thơ mình, Hồ Xuân Hương đã dựa vào tính đơn âm và đa thanh của tiếng việt sát gần với tiếng Hán mà vẫn giữ nguyên thể loại đảm bảo sự hài hòa, cân đối như một khối nền đa âm thanh và đa màu sắc mà vẫn nhất quán.
Hồ Xuân Hương đã sử dụng lối chơi chữ, lối nói lái một cách rộng rãi. Nhưng lối chơi chữ, nói lái của Hồ Xuân Hương không phải như một số người nhằm để khoe chữ, phô trương tri thức sách vở. Xuân Hương chơi chữ hoặc để
trào lộng, hoặc mỉa mai châm biếm làm cho câu thơ trở nên "duyên dáng" vô cùng. Xuân Hương là nhà thi sĩ độc nhất dùng những lời nói rất đỗi đời thường, nôm na, giản dị vào trong thơ và lại rất khéo rất táo bạo.
3.2. Giọng điệu mang thiên tính nữ
Thơ Hồ Xuân Hương có giọng điệu xót xa đầy cảm thông khi viết về bi kịch của người phụ nữ.
Viết về mình, về giới của mình Hồ Xuân Hương luôn có những vần thơ tha thiết yêu thương bằng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết mà sâu lắng, chân thành. Là một nhà thơ nữ, Hồ Xuân Hương có đủ sự tinh tế, nhạy cảm khi viết về người phụ nữ. Là một người hứng chịu những bất hạnh, thiệt thòi trong cuộc sống tình duyên, Hồ Xuân Hương có đủ tấm lòng cảm thông và bao dung đối với những người phụ nữ gặp cảnh bất hạnh, lầm lỡ như mình. Bà dành nhiều thiện cảm cho họ hơn ai hết. Nếu không ít những trang nam nhi, quân tử xuất hiện trong thơ bà với vẻ ngoài lấm lét, bản chất ngu dốt, xấu xa thì ngược lại những người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp thật rạng ngời. Xuân Hương đề cao người phụ nữ vì bà nhận thấy trong cái xã hội mà người phụ nữ bị tước hết quyền lợi, chỉ là người thấp cổ bé họng. Với bản chất cũng như sức sống mãnh liệt, họ đáng được đề cao và ngưỡng mộ.
Bà không hề gay gắt với những người phụ nữ có cuộc đời bất hạnh mà thường nói về họ với giọng cảm thông chân thành. Hồ Xuân Hương không bao giờ dửng dưng, lạnh nhạt. Nhà thơ luôn luôn có một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói với tất cả sự xúc động chân thành của mình. Khi giận dữ thì thét lên, mắng chửi; khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Nếu bài Cảnh chồng chung là tiếng nói phẫn uất chua xót đối với chế độ đa thê bất công mà người phụ nữ phải chịu đựng, thì bài Không chồng mà chửa lại là một lời nói rất mực khoan dung, độ lượng đối với cảnh ngộ không may của họ. Bà gọi phụ nữ là “Hỡi chị em ơi”, bà lên tiếng bênh vực chính quyền lợi của giới mình.
Lớn tiếng nói to lên những bất công cũng như những bức xúc, Hồ Xuân Hương như muốn trách móc, muốn tung hê mọi áp chế đối với người phụ nữ, muốn mọi người hiểu được những gì mà người phụ nữ như bà phải chịu đựng. Nếu như trong ca dao người phụ nữ thường nhẫn nhịn chịu thiệt thòi, thì trong thơ bà họ có đủ dũng khí đứng lên để đấu tranh với những điều ngang trái, giành lại hạnh phúc cho mình. Ý thơ thật mạnh mẽ, lời thơ như muốn đảo lộn cả khuôn khổ xã hội phong kiến. Điều này nói lên thái độ và tình cảm mà Hồ Xuân Hương đã dành cho phụ nữ. Có khi Xuân Hương viết về mình, có khi viết về người nhưng bao giờ cũng toát lên một tinh thần lạc quan, vui tươi, khỏe khoắn, mang đậm thiên tính nữ.
Trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương, bên cạnh tiếng cười giòn giã, lạc quan, thách thức, còn có cả tiếng thở dài ngậm ngùi, xót xa giữa đêm khuya thanh vắng về thân phận long đong chìm nổi, về số kiếp hẩm hiu, bạc bẽo của người phụ nữ. Cái "tục" trong thơ bà nhiều khi mang tính lưỡng trị, nó vừa phản ánh cái tục của cuộc đời trần tục vừa thể hiện cái “tục” theo ý nghĩa phồn thực. Trong quá trình phát triển của lịch sử, Hồ Xuân Hương đã có cống hiến lớn lao trong việc nêu lên vấn đề về quyền sống và nhân phẩm của người phụ nữ, chống lại những tập tục, những quan điểm bất công vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến. Tiếng nói mạnh bạo, thống thiết của Hồ Xuân Hương sẽ mãi mãi vang vọng nhờ giá trị lịch sử và nhân văn. Hồ Xuân Hương là một con người tài hoa giàu sức sống mà cuộc đời thì lận đận đắng cay.
Cuộc đời Xuân Hương không những bị chén ép về mặt tinh thần, tình cảm mà cả về bản năng dục vọng đời thường, về hạnh phúc ân ái của con người. Xuân Hương đã nói lên tiếng nói cho cả xã hội thời bấy giờ, một xã hội đã vùi lấp và phủ kín con người nằm yên trong cái bao bọc của sự bi quan, nhẫn nhục, chịu đựng. Xuân Hương nói về những nhu cầu hạnh phúc của con ngưòi đâu có gì là dâm là tục, đó chẳng phải là bản năng lành mạnh của bao đời đó sao? Tiếng thơ của Xuân Hương có quá quắt có "nặng" nhu cầu ân ái một cách da diết, táo
tợn như vậy suy cho cùng đó cũng là một đòn giáng mạnh vào chế độ phong kiến mục rỗng "khát tình" ấy mà thôi. Đó là một khát vọng chính đáng của con người bị xã hội phong kiến dìm xuống. Chính vì phải chịu đựng những oan ức thiệt thòi, bị ức chế cả về thể xác lẫn tâm hồn, mà người phụ nữ xưa tiêu biểu là Hồ Xuân Hương là một trong những người tiên phong nói lên tiếng nói phản kháng, đả kích xã hội phong kiến, bênh vực quyền lợi vốn là tự nhiên của mình, của giới mình. Hồ Xuân Hương không chỉ đứng lên đòi quyền bình đẳng cho người phụ nữ về mặt xã hội, mà hơn nữa còn là nhu cầu về tình cảm của người phụ nữ phải được đáp ứng một cách công bằng. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân bản của thơ Hồ Xuân Hương.
Chính những điều đó làm nên giọng thơ Hồ Xuân Hương mang đậm thiên tính nữ.
Thơ Hồ Xuân Hương là một lối thơ rất tự nhiên, thật gần gũi với đời sống thường nhật, với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động. Lời thơ không cầu kỳ, gọt dũa mà vẫn thiết tha, nhẹ nhàng rót vào lòng người những cung bậc rất thánh thót, ngân vang. Thơ bà đã thoát ra ngoài khuôn sáo, ít dùng điển cố Hán văn, lời thơ thường dùng theo lối ca dao, tục ngữ, rất gần với nếp cảm, nếp nghĩ của người phụ nữ trong văn học dân gian.
Giống như nhiều nhà thơ cổ điển khác Hồ Xuân Hương đã vận dụng thành công sáng tạo ngôn ngữ của dân tộc. Bà đã sáng tạo lại ca dao, tục ngữ, câu đố, đã triệt để lợi dụng các tính từ, từ láy, trạng từ tăng hiệu quả của việc tạo hình và miêu tả . Nhờ vậy mà người, cảnh, vật được hiện lên trong thơ Hồ Xuân Hương có màu sắc, đường nét, hình khối riêng đã tạo nên nhiều bức tranh sinh động, tuyệt mĩ về vẻ đẹp hình thức và tâm hồn người phụ nữ.
Xuân Hương là sự thống nhất giữa một trái tim nhân hậu, đa cảm và bộ óc mẫn tiệp, thông tuệ, bởi nhiều yêu thương nên lắm âu lo. Và hai nửa ấy cứ đan xen, hòa quyện, tạo nên một Xuân Hương kỳ nữ, kỳ tài. Đó là sự gặp gỡ giữa hai dòng dân gian và bác học để rồi thăng hoa thành một Xuân Hương dung dị mà
kiêu sa, hồn nhiên, nồng nàn mà sâu lắng. Sự hợp duyên giữa hai nền văn hóa dân gian và bác học đã sinh ra một Xuân Hương, nhưng gien trội ở nàng thuộc về văn hóa mẹ và đó là cái duyên làm cho nàng trở nên tràn trề sức sống. Điều đó góp phần nuôi dưỡng nên một hồn thơ Xuân Hương đậm đà thiên tính nữ.
Tiểu kết
Qua phân tích trên chúng ta thấy được thiên tính nữ trong nghệ thuật thơ Nôm Hồ Xuân Hương khi viết về người phụ nữ. Điều đó được thể hiện trong cách xưng hô mang đậm nét tính cách Hồ Xuân Hương. Bà đã vận dụng mô típ “Thân em” trong ca dao nhưng đã để lại dấu ấn rất riêng của Hồ Xuân Hương. Đó là sự mạnh mẽ, tự tin của người phụ nữ dám khẳng định cá tính của mình trong xã hội phong kiến. Xuân Hương đã vận dụng thành công nghệ thuật nói lái, chơi chữ, “tâm trạng hóa” thành ngữ, tục ngữ…nhằm bộc lộ thiên tính nữ. Bà đã viết về những người phụ nữ trong thơ mình bằng cả trái tim với giọng thơ cảm thông chân thành dành những cô gái cả nể,những người phụ nữ phải sống cảnh chồng chung, cảnh góa bụa…Viết về bi kịch riêng của người phụ nữ trong xã hội cũ nhưng giọng thơ bà không hề than thở hay bi lụy mà có khi thơ bà là tiếng cười giòn giã, lạc quan với niềm tin mang đậm thiên tính nữ.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Khái quát những vấn đề đã nghiên cứu
Như vậy với đề tài nghiên cứu: “Thiên tính nữ trong thơ Nôm truyển bản của Hồ Xuân Hương” người viết đã tiến hành khảo sát, phân tích, đối chiếu so sánh để làm nổi bật thiên tính nữ, làm sáng tỏ vấn đề thiên tính nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương: Thiên tính nữ qua chủ đề người phụ nữ; Thiên tính nữ qua thơ thiên nhiên; Thiên tính nữ qua nghệ thuật thơ; Lí giải cội nguồn giá trị nhân văn và đặc sắc nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương.
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương đậm đà thiên tính nữ qua những bài thơ viết về chủ đề người phụ nữ. Bởi là những vần thơ của người phụ nữ viết cho người phụ nữ nên văn chương bà in rõ sắc màu giới tính. Với tư cách là người trong cuộc, Hồ Xuân Hương không chỉ than cho người phụ nữ nói chung mà còn than cho bản thân mình đã bị đọa đày. Hồ Xuân Hương lột tả những vấn đề riêng tư, những bất công họ phải chịu đựng, tranh đấu bênh vực quyền lợi của họ. Tuy nhiên Hồ Xuân Hương không nêu lên được hết những nỗi khổ của họ mà chỉ đưa ra những nỗi khổ riêng có tính chất giới tính: duyên phận éo le, cảnh làm lẽ, sự nhẹ dạ, quá nể người tình nên phải bụng mang dạ chửa, cảnh góa bụa… Hồ Xuân Hương chia sẻ những nỗi khổ đau đó, không một lời thở than. Hồ Xuân Hương ý thức rõ giá trị và vai trò của người đàn bà: họ đẹp ở đạo đức, đẹp ở con người, tài năng không thua kém người đàn ông. Hồ Xuân Hương một mặt bênh vực, đề cao người phụ nữ, mặt khác lớn tiếng đả kích các nhân vật tiêu biểu của xã hội, từ đám sĩ tử, nhà sư hổ mang, đến bọn quan lại, "hiền nhân quân tử" , kể cả vua chúa. Bà bênh vực phụ nữ, khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc ái ân..., tất cả đều mang đậm thiên tính nữ.
Hồ Xuân Hương đã viết những vần thơ thiên nhiên mang đậm thiên tính nữ. Đó là một thiên nhiên sinh động như đang cựa quậy, quấn quýt, giao hòa, đầy sức sống. Thiên nhiên ấy có hình, có thể và mang tâm sự của những người phụ nữ. Xuân Hương đã đứng về phía người phụ nữ mà cảm mà nghĩ. Việc trở về với biểu
tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương đã làm bật nên sự ca ngợi vẻ đẹp hình thể, trần thế của người phụ nữ. Đó là triết lí ca ngợi sự sống, ca ngợi bản chất tự nhiên của con người, khuyến khích con người sống, phát triển theo tự nhiên, chống lại những gì cản trở con người sống theo tự nhiên, khẳng định quyền tự nhiên thuộc về thiên tính nữ. Chúng ta ca ngợi và cảm phục nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã đưa phồn thực vào trong thơ văn một cách khéo léo đến tuyệt vời. Và có lẽ cái tâm lí sục sôi những niềm khát khao yêu đương, hạnh phúc của thi sĩ Xuân Hương cũng mãnh liệt như khát vọng sinh sôi, nảy nở phát triển hơn nữa trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt, trong khát vọng nữ tính.
Bằng tài năng nghệ thuật của mình, đặc biệt là tài năng sử dụng tiếng Việt, Hồ Xuân Hương đã vận dụng thành công những tinh hoa của văn học dân gian vào sáng tác thơ Nôm của mình làm nổi bật thiên tính nữ. Qua cách xưng hô của bà cho thấy Hồ Xuân Hương đứng ở nhiều vị trí: tôi, chị, em, thân em, và cả tên Xuân Hương hết sức thiết tha, đằm thắm, giàu nữ tính. Hồ Xuân Hương đã “tâm trạng hóa” thành ngữ, tục ngữ với giọng điệu thơ tha thiết, chân thành đầy cảm thông với những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ. Với nghệ thuật chơi chữ, nói lái, nói vòng đã làm nổi bật hơn thiên tính nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Người phụ nữ trong thơ bà có nét gì giống như người phụ nữ trong ca dao, lại có nét mạnh mẽ, bản lĩnh đầy khát khao khẳng định tài năng của giới mình, khẳng định thiên tính nữ. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người đọc luôn được chuyển đi từ cực này sang cực khác trong cái không gian đạo đức- thẩm mĩ của bà. Vẻ đẹp thiên tính nữ trong thơ Hồ Xuân Hương được thể hiện với một lối văn giản dị, rất đời thường.
Hồ Xuân Hương nói đến lòng xót thương người phụ nữ hay đả kích giai cấp thống trị, dù bộc bạch tâm sự riêng tư hay ngâm ngợi phong cảnh của thiên nhiên thì đều quy tụ ở một sự chi phối thống nhất đó là chủ nghĩa nhân văn nhân đạo sâu sắc. Người phụ nữ là một phần lớn của nhân loại, là người sản sinh ra con người văn hóa cần được hưởng mọi giá trị mà họ cần được hưởng. Thơ
Xuân Hương nói được những bi kịch mang tính chất giới tính của người phụ nữ trong xã hội cũ. Thơ bà còn là tiếng nói khát khao về hạnh phúc, về tình yêu, là sự ý thức và khẳng định tài năng, ca ngợi vẻ đẹp hình thức và nội tâm của người phụ nữ…. Qua đó một lần nữa khẳng định thơ Nôm truyền bản của Hồ Xuân Hương mang đậm thiên tính nữ.
Tất cả những ý nghĩa biểu đạt trên đã làm nên sự nổi tiếng của thơ bà, không những ở phạm vi trong nước mà tầm cỡ nhân loại, tạo nên một hiện tượng văn học đặc biệt của văn học Trung đại, có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn đến thế hệ cùng thời và sau này.
2. Hướng phát triển của đề tài
Với đề tài: “Thiên tính nữ trong thơ Nôm truyền bản Hồ Xuân Hương”, chúng tôi mới chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu những vấn đề về thiên tính nữ trong thơ Nôm truyền bản của Hồ Xuân Hương. Chúng tôi hi vọng có thể triển khai đề tài này sâu và rộng hơn theo hướng: Nghiên cứu thiên tính nữ trong sáng tác của một số tác giả nữ thời trung đại Việt Nam như Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm…