- Cảnh quan: VQG Xuân Sơn nằm ở điểm cuối của dãy Hoàng Liên Sơn. Tuy khí hậu nơi đây không được mát mẻ như Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhưng thiên nhiên nơi đây vẫn có những nét riêng để hấp dẫn du khách. VQG Xuân Sơn chủ yếu là đất rừng và chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nên môi trường không khí trong lành, môi trường nước sạch sẽ và khí hậu mát mẻ. Cùng với sự đa dạng địa hình, đa dạng cảnh quan_hệ thống đồi núi, suối thác, thung lũng, hang động đã tạo cho Xuân Sơn có một sức hút lớn đối với khách du lịch. Theo số liệu thống kê trong Vườn có trên 30 hang động trong đó một số hang có vẻ đẹp rất kỳ ảo và hấp dẫn như hang Lạng, hang Na, hang Lun, hang Thổ Thần. Bên cạnh vẻ đẹp do tạo hóa thì một số hang động còn gắn liền những truyền thuyết riêng khiến cho thiên nhiên nơi đây nhuốm màu huyền thoại. Cảnh quan của VQG Xuân Sơn đang và sẽ là một lợi thế lớn để phát triển du lịch góp phần cải thiện đời sống người dân. Các hang động có các hình thù, các khối thạch nhũ rất đẹp, song cũng đã xảy ra hiện tượng các khối thạch nhũ này bị cắt xẻ làm mất đi vẻ đẹp vốn có của nó. Ai đến thăm hang lần đầu chắc hẳn sẽ nghĩ rằng ai đó bẻ đi những khối thạch nhũ này nhằm để đi lại trong hang dễ dàng hơn và không bị vướng. Thế nhưng khi được hỏi mục đích của việc bẻ những khối thạch nhũ này là gì, người dân địa phương cho biết những khối thạch nhũ này đã bị người ta lấy trộm về làm các hòn non bộ (Nguồn: Kết quả phỏng vấn 09/2015).
3.1.4. Tài nguyên ĐDSH
VQG Xuân Sơn có địa hình núi đất xen núi đá vôi với nhiều kiểu địa hình núi trung bình, núi thấp và đồi, thung lũng. Sự đa dạng về địa hình, đai cao, khí hậu đã tạo nên sự đa dạng về sinh cảnh (hệ sinh thái). Sự đa dạng về địa hình, đai cao và sinh cảnh đã quyết định tính đa dạng của khu hệ động thực vật của khu vực VQG Xuân Sơn.
3.1.4.1. Đa dạng hệ sinh thái và thảm thực vật
Theo tác giả Trần Minh Hợi và Nguyễn Xuân Đặng (2008) thì VQG Xuân Sơn có tới 9 kiểu HST và thảm thực vật.
HST rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới
Kiểu rừng này chiếm khoảng 12% toàn diện tích VQG, ở đai độ cao 200-800
m. Kiểu rừng này ít nhiều bị tác động, nhưng cơ bản còn là rừng nguyên sinh, với tầng tán khá rõ rệt.
Tầng ưu thế gồm các loài: Táu muối (Vatica diospyroides), Táu nước (V. subglabra), Chò chỉ (Parashorea chinensis), Chò nâu (Dipterocarpus retusus), Cứt ngựa (Archidendron balansae), Trường mật (Pometia pinnata), Cò kén (Pavieasia annamensis), Gội (Aglaia spectabilis), Cà lồ (Caryodaphnopsis tonkinensis), Trâm vối (Syzygium cuminii), đường kính trung bình từ 35-40 cm, cao từ 18-25 m.
HST rừng kín thường xanh nhiệt đới trên đất đá vôi xen núi đất
Kiểu rừng này chiếm khoảng 11% toàn diện tích VQG và phân bố tập trung ở hai đầu dãy núi Cẩn. Đây là kiểu rừng hình thành từ thành phần thực vật đa dạng nhất. Những loài phổ biến thường gặp rất đặc trưng: Trai (Garcinia fagraeoides), Mạy tèo (Streblus macrophyllus), Ô rô (Streblus asper), Nghiến (Excentrodendron tonkinense), Đinh (Markhamia stipulata), Vàng anh (Saraca dives).
Tầng ưu thế còn có kích thước tương đối lớn như Cà lồ, Trường mật, Cò kén, Chò xanh, Gội, Nhọc, Côm, Thị, Tung, Chò nâu, Chò chỉ, …Đường kính trung bình 40-50 cm, đôi khi gặp cây có đường kính > 100 cm.
HST rừng kín thường xanh á nhiệt đới trên đất đá vôi xương xẩu
Kiểu rừng này chiếm khoảng 6 % diện tích tự nhiên, phân bố đều thành các mảng từ độ cao > 800 m. Từ độ cao này rừng có sự thay đổi xuất hiện các loài lá kim như Sam bông (Amentotaxus hatuyenensis), Thông tre (Podocarpus neriifolius), xen kẽ là nhóm Re (Cinnamomum), Dẻ (Castanopsis), Chè (Camellia), Thị (Diospyros), …Đặc biệt là 3 loài lan hài hiếm (Pholidota hiepii, P. henyrianum,
P. gratixianum).
HST rừng kín thường xanh mưa mùa á nhiệt đới núi thấp
Kiểu rừng này chiếm khoảng 15% tổng diện tích và có diện tích lớn nhất về cây gỗ. Tuy đã bị tác động nhiều nhưng rừng vẫn còn cơ bản tính nguyên sinh, độ tàn che 0,9%, thực vật lá rộng có đường kính lớn: Dẻ (Fagaceae), Long não
(Lauraceae), Mộc lan (Magnoliaceae), Thích (Aceraceae), Chè (Theaceae), Sến (Sapotaceae), Nhân sâm (Araliaceae), Hoa hồng (Rosaceae), Giền (Amaranthaceae). Đặc biệt có cây Rau sắng (Melientha suavis) mọc tương đối nhiều.
Đặc trưng kiểu rừng này còn có thực vật ngoại tầng với các dây leo thân gỗ to lớn như dây Bàm bàm (Entanda faseoloides), Dây trắc (Dalbergia sp.), Ngọc anh núi (Tabernaemontana borina), Dây đòn gánh (Fetiastigma eberhardtii), Kim cang (Smilax sp.)và nhóm Song mây (Calamus ssp.).
HST rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy
Kiểu rừng này chiếm khoảng 11,5% diện tích tự nhiên và phân bố rải rác. Rừng thứ sinh kiểu này bao gồm: Rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy nhiệt đới và Rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy á nhiệt đới núi thấp. Thành phần loài và cấu trúc rừng đơn giản. Rừng chỉ có 1 tầng cây gỗ và có tán đều nhưng khá thưa. Dưới tán rừng thảm tươi khá tốt, phát triển rậm rạp gồm các loài thuộc họ Cỏ cao (Poaceae), họ Cói (Cyperaceae). Tầng trên rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới phổ biến các loài Hu đay (Trema orientalis), Màng tang (Litsea cubeba). Còn ở đai rừng nhiệt đới lại là các loài trong họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) thuộc các chi Macaranga, Mallotus, Croton, Bồ đề (Styrax tonkinensis). Thi thoảng gặp một số loài của Rừng nguyên sinh như Chò chỉ (Parashorea chinensis). Dưới tán rừng đã thấy xuất hiện một số loài cây gỗ mọc trở lại.
HST rừng thứ sinh tre nứa
Diện tích rừng này nằm trong vành đai Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, chiếm một diện tích nhỏ. Đây cũng là kiểu phụ thứ sinh được hình thành từ rừng cây gỗ bị khai thác kiệt hoặc sau nương rẫy bị bỏ hoang, chủ yếu là Nứa lá nhỏ (Schizostachyum dulloa) và một vài nhóm cây gỗ mọc rải rác. Mật độ cây khá dày (200-220 bụi/ha), cao bình quân 5-6 m. Cây có đường kính nhỏ 5-7 cm. Dưới tán trong rừng nứa, thảm tươi rất ít phát triển thường xuất hiện một số loài trong họ Gừng (Zingiberaceae). Dây leo phổ biến là Kim cang (Smilax), Sắn dây (Pueraria), Bìm bìm (Ipomoea).
Trảng cỏ, trảng cây bụi, cây gỗ mọc rải rác
Kiểu thảm này chiếm diện tích tương đối lớn (30,8% tổng diện tích tự nhiên) của VQG và phân bố rải rác khắp các khu vực ở cả hai vành đai độ cao, tập trung hơn cả vẫn là đai rừng nhiệt đới thuộc phía Đông của VQG. Trảng cỏ gồm cỏ cao như: Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Lau (Erianthus arundinaceus), Lách (Saccharum spontanneum), Cỏ chít (Thysanolaema maxima), Cỏ giác (Panicum sarmentasum).
Rừng trồng
Với diện tích chiếm rất nhỏ (0,1% diện tích tự nhiên). Rừng mới được trồng khoảng 10 năm trở lại đây, gồm loài cây Keo lai ở khu vực xã Kim Thượng: đường kính 7-8 cm, cao 8 m; một số ít trồng Bồ đề (Styrax tonkinensis) mới trồng nên chưa khép tán.
Thời gian gần đây, VQG đã chú trọng đến việc khoanh nuôi bảo vệ rừng và trồng xen một số cây bản địa như: Lát hoa (Chukrasia), Chò chỉ (Parashorea chinensis), Chò nâu (Dipterocarpus retusus), Giổi xanh (Mechelia tonkinensis), Mỡ (Manglietia conifera), Chò xanh (Terminalia myriocarpa).
Thảm cây trồng
Chiếm khoảng 10%, nằm rải rác khắp VQG nơi có dân sinh sống quanh các bản làng gồm: Ruộng lúa nước, ruộng lúa nương, nương rẫy trồng hoa màu. Đặc biệt là Chè (Camellia) khá phổ biến với nhiều giống địa phương và du nhập từ nơi khác về được trồng từ lâu đời.
Như vậy, HST rừng của VQG Xuân Sơn rất đa dạng là yếu tố quyết định tính đa dạng của thảm thực vật và động vật nơi đây. Thảm thực vật này phân bố theo các dạng địa hình, đai cao khác nhau rất phong phú về số lượng loài.
Sự đa dạng hệ sinh thái này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi đi cùng với nó là sự đa dạng về dịch vụ hệ sinh thái_những dịch vụ có mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp tới cuộc sống người dân. Một khi giá trị đa dạng sinh học này suy giảm sẽ “đe dọa” một loạt các dịch vụ HST như khả năng cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc và nước ngọt, thụ phấn cây trồng, lọc chất ô nhiễm và bảo vệ khỏi thiên tai.
Các dịch vụ văn hóa như các giá trị tinh thần và tín ngưỡng, các cơ hội về kiến thức và giáo dục, cũng như các giá trị giải trí và thẩm mỹ cũng suy giảm theo.
3.1.4.2. Đa dạng thực vật
So với một số VQG và KBTTN khác thì thực vật VQG Xuân Sơn có số lượng khá phong phú về số loài cây. Sự đa dạng này được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3.2. So sánh về thực vật ở các vùng
Diện tích (ha) | Số loài | Loài đặc trưng | |
VQG Ba Bể (Bắc Cạn) | 23.340 | 602 | Nghiến – Lát-Ô rô |
VQG Cát Bà (Hải Phòng) | 15.000 | 745 | Kim giao – Và nước |
KBTTN Hữu Liên (Lạng Sơn) | 10.647 | 795 | Nghiến – Hoàng đàn – Mạy tèo |
RQG Đền Hùng (Phú Thọ) | 285 | 458 | Chò nâu, Bồ lầm, Thị rừng, Nụ |
KBTTN Khe rỗ (Bắc Giang) | 7.153 | 786 | Lim xanh, Táu mật, Trầu tiên, Ba kích |
KBTTN Tà Xùa (Sơn la) | 20.200 | 613 | Pơ mu, Xoan nhừ, Chò chỉ, Táo mèo |
KBTTN Côpia (Sơn la) | 7.000 | 639 | Pơ mu, Giổi, Dẻ, Mận rừng |
VQG H.Liên (Lào cai) | 29.845 | 2344 | Vân –Thiết sam, Tống quán sử, Đỗ quyên sa pa, Sặt gai |
KTTN Lâm thượng (Yên Bái ) | 9.535 | 957 | Trai lý, Chò chỉ, Trường Sâng, Trường Kẹn, Xoan nhừ |
VQG Xuân Sơn | 15.048 | 1259 | Trai lý, nghiến, chò chỉ, Trường Sâng. |
Có thể bạn quan tâm!
- Diện Tích, Dân Số Vùng Đệm Vườn Quốc Gia Xuân Sơn
- Các Nghiên Cứu Về Sinh Kế Tại Vườn Quốc Gia Xuân Sơn
- Phương Pháp Đánh Giá (Pra)Có Sự Tham Gia Của Người Dân
- Hiện Trạng Sinh Kế Người Dân Vùng Đệm Vqg Xuân Sơn
- Phân Tích, Đánh Giá Sinh Kế Người Dân Vùng Đệm Vqg Xuân Sơn
- Đề Xuất Các Giải Pháp Sinh Kế Bền Vững
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
“Nguồn: [BQL VQG Xuân Sơn, 2013]”
Theo số liệu thống kê của tác giả Trần Minh Hợi và Nguyễn Xuân Đặng năm 2008 thì trong tổng số 1.217 loài thực vật tại VQG Xuân Sơn thì có tới 1.171 loài cây có ích thuộc 9 nhóm dưới đây:
Bảng 3.3. Số loài cây có ích tại VQG Xuân Sơn, Phú Thọ
Công dụng | Ký hiệu | Số loài | |
1 | Cây làm thuốc | T | 665 |
2 | Cây lấy gỗ | G | 202 |
3 | Cây ăn được (Quả, rau,…) | Q, R | 132 |
4 | Cây cho hoa, làm cảnh, bóng mát | Ca | 90 |
5 | Cây cho tinh dầu | TD | 41 |
6 | Cây dùng đan lát | Đa | 12 |
7 | Cây làm thức ăn gia súc | Tags | 12 |
8 | Cây cho dầu béo | D | 9 |
9 | Cây có độc | Đ | 8 |
Tổng | 1.171 |
“Nguồn: [Trần Minh Hợi - Nguyễn Xuân Đặng, 2008]”
Theo bảng số liệu trên ta có mối tương quan giữa các loài thực vật có ích trong VQG Xuân Sơn được thể hiện như sau:
Hình 3.2. Tỷ lệ các loài cây có ích tại VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ năm 2008
Theo biểu đồ trên ta thấy sự có mặt các loài cây làm thuốc ở VQG Xuân Sơn rất phong phú (chiếm 56,79% tổng số các loài cây có ích). Tiếp đến là nhóm cây gỗ
(17,25%), cây ăn được (11,27 %) và cây làm cảnh (7,69%). Những loài cây này có ý nghĩa hết sức quan trọng cả ở hiện tại và tương lai vì chúng là những nguồn gen quý trong công tác tạo giống và phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế. Bên cạnh những bài thuốc nam gia truyền của người dân, các loài dược liệu này cần được nghiên cứu thêm về thành phần dược tính và công dụng của nó để có thể có thể nhân rộng và làm nguồn nguyên nhiên liệu chính trong ngành y dược. Có thể nói sự phong phú các loài cây thuốc (56,79% _tỷ lệ cao nhất trong các loài cây có ích tại VQG) là một trong những điểm mạnh sẽ góp phần phát triển sinh kế người dân. Các cây thuốc này cần có thêm các nghiên cứu bổ sung khác xem cây thuốc nào phù hợp để phát triển sinh kế, từ đó sẽ ứng dụng rộng rãi cho người dân.
Các loài cây gỗ tuy chỉ chiếm 17,25 % song chúng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế và có ý nghĩa quyết định hoàn cảnh sinh thái của rừng, chi phối các loài cây khác.
Theo số liệu điều tra về khu hệ động thực vật VQG Xuân Sơn năm 2013 thì số loài thực vật ở VQG là 1259 loài. Trong khi đó kết quả điều tra năm 2008 của tác giả Trần Minh Hợi là 1171 loài. Trong năm 2013-2014, VQG Xuân Sơn phối hợp với các nhà khoa học thuộc Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam đã xác định thêm được 2 loài khác thuộc họ gừng. Một số nghiên cứu khác gần đây tiếp tục phát hiện nhiều loài mới ở VQG Xuân Sơn: Năm 2015, có 2 loài dẻ gai mới được phát hiện thuộc chi dẻ gai…đã góp phần bổ sung danh lục thực vật của VQG và danh lục thực vật của Việt Nam và Thế giới.[14,22,36].
Điều này cho thấy số loài thực vật ở đây hiện còn nhiều loài chưa được biết đến, trong đó chắc chắn sẽ có nhiều ghi nhận mới cho khoa học và tổng số loài thực vật bậc cao ở đây sẽ cao hơn con số 1259.
Các loài cây dược liệu, cây ăn được và cây làm cảnh có giá trị ở VQG Xuân Sơn tuy rất phong phú, song với sự khai thác không bền vững của người dân trong và ngoài khu vực cũng đã đe dọa tới trữ lượng và số lượng các loài, khiến một số loài nay đã trở nên khan hiếm. Phần lớn những người được phỏng vấn đều cho biết họ sẽ lấy và thu hái bất cứ cây gì họ gặp được. Một số cây thuốc, cây rau sắng,…
nay không còn nhiều như trước và người dân phải đi xa hơn mới kiếm được. “Nguồn: [Kết quả phỏng vấn]”.
Theo nguồn tài liệu BQL VQG Xuân Sơn năm 2013, kết quả điều tra đã xác định có 47 loài thực vật (trong tổng số 1259 loài) có nguy cơ bị tuyệt chủng được ghi trong sách đỏ Việt Nam và sách đỏ thế giới [Phụ lục 2].
Nhìn chung, VQG Xuân Sơn có sự đa dạng loài thực vât với nhiều loài cây có ích đặc biệt là cây thuốc và cây ăn được tiềm năng,…sẽ là điểm mạnh để giúp bà con phát triển sinh kế.
3.1.4.3. Đa dạng động vật
Động vật là thành phần cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái đồng thời cũng là nguồn cung cấp thực phẩm, dược liệu có giá trị. Sự đa dạng động vật đồng nghĩa với sự phong phú nguồn gen phục vụ con người trong việc chọn giống, lai tạo, cải thiện đàn vật nuôi.
Kết quả điều tra khu hệ động vật VQG Xuân Sơn năm 2013 đã xác định được 370 loài được tổng hợp dưới bảng sau.
Bảng 3.4. Tổng hợp tài nguyên động vật VQG Xuân Sơn
Số bộ | Số họ | Số loài | |
Lớp thú | 8 | 26 | 94 |
Lớp chim | 14 | 50 | 223 |
Lớp bò sát | 2 | 11 | 30 |
Lớp ếch nhái | 1 | 7 | 23 |
Tổng | 25 | 94 | 370 |
“Nguồn: [BQL VQG Xuân Sơn, 2013]”
Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy mối tương quan giữa các nhóm động vật ở VQG Xuân Sơn được thể hiện như biểu đồ sau: