Kiếm; các cán bộ Ban chỉ đạo đã phối hợp với cán bộ cấp ủy Đảng, chính quyền Quận tích cực tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân Quận thấy được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng dân chủ ở cơ sở.
Thứ năm, chính quyền cơ sở đã phối hợp với MTTQ phường và các tổ chức thành viên cơ bản thực hiện tốt nội dung này trên nguyên tắc bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền của dân được biết trên một số lĩnh vực nhạy cảm như: kế hoạch vay vốn cho nhân dân; kết quả bình xét hộ nghèo; Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính,...
Thứ sáu, về hình thức, phương thức thực hiện quyền dân chủ ở phường được tiến hành qua các hình thức khác nhau, như: tăng cường đối thoại trực tiếp; tổ chức họp với các đồng chí là đảng viên đang sinh hoạt tại phường và sinh hoạt 2 chiều; phát thanh trên hệ thống loa truyền thanh phường...
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
- Hạn chế:
Thứ nhất,việc công khai các nội dung để Nhân dân biết theo Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 có lúc, có nơi còn hình thức, một số lĩnh vực nội dung công khai chưa đầy đủ, kịp thời, thiếu cụ thể, chưa tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận thông tin. Một số nội dung công khai liên quan đến: Dự án đầu tư và quy hoạch sử dụng đất chi tiết; Kết quả của cán bộ, công chức... được quy định cần phải công khai cho nhân dân nhưng trên thực tế thì mức độ công khai của những nội dung này còn chưa kịp thời, hạn chế. Một số hình thức công khai (được quy định theo pháp luật) không nhận được sự đánh giá cao từ nhân dân, ví dụ niêm yết công khai tại UBND. Hình thức niêm yết công khai tại trụ sở UBND các phường chưa thực sự có hiệu quả, đặc biệt đối với những nội dung có nhiều thông tin, tài liệu. Hình thức tổ chức tuyên truyền chủ
trương của Đảng và Nhà nước về phát huy dân chủ cơ sở còn đơn điệu, chạy theo phong trào.
Thứ hai,việc thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở ở một số đơn vị còn hình thức; các quy chế, quy ước xây dựng còn tình trạng sao chép, chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, có nội dung không phù hợp với thực tế của đơn vị.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Về Dân Chủ Cơ Sở Tạiquận Hoàn Kiếm, Thành Phố Hà Nội
- Kết Quả Ban Hành Các Văn Bản Lãnh Đạo Thực Hiện Qcdc
- Đánh Giá Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Về Dân Chủ Cơ Sở Tạiquận Hoàn Kiếm, Thành Phố Hà Nội
- Các Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Và Bảo Đảm Thi Hành Pháp Luật Về Dân Chủ Cơ Sở Tại Quận Hoàn Kiếm, Thành Phố Hà Nội
- Gắn Việc Thực Hiện Pháp Luật Về Dân Chủ Ở Cơ Sở Với Việc Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội, Củng Cố An Ninh Quốc Phòng
- Thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Thứ ba, hiện nay có nhiều cuộc họp được tổ chức dẫn đến tốn kém thời gian và thực chất nhiều cử tri hoặc đại diện thường xuyên vắng mặt vì lý do công việc, sức khỏe… làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc họp cũng như tốn kém cho chính quyền. Thậm chí, dù có tham gia cuộc họp nhưng người dân cũng chỉ tham gia cho đủ mà không thực sự chú tâm đến những vấn đề được đưa ra.
Thứ tư,công tác kiểm tra, giám sát thực hiện QCDC ở cơ sở tại một số đơn vị chưa được tiến hành thường xuyên. Hoạt động của BCĐ QCDC một số đơn vị chưa đều, công tác thông tin báo cáo việc thực hiện QCDC chưa kịp thời.
Thứ năm,vai trò của Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư của cộng đồng chưa thực sự được chú trọng đúng mức. Các ban chỉ được lập ra cho đủ theo quy định của pháp luật mà chưa có cơ chế giám sát việc hoạt động của họ. Cơ chế giám sát, phản biện của Mặt trận, đoàn thể còn chậm được cụ thể hóa, trong thực hiện còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Thứ sáu,trách nhiệm và các biện pháp cụ thể xử lý khi có vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở chưa được quy định tại Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11. Quy định pháp luật hiện hành sơ sài về tính chịu trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm của người đứng đầu về việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Do đó, khi có vi phạm xảy ra, bị phát hiện, tính kịp thời trong xử lý vi phạm về thực hiện dân chủ cơ sở còn lúng túng, bị động, thiếu nghiêm minh và căn cứ để xử lý.
- Nguyên nhân của hạn chế:
Một là, pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các văn bản hướng dẫnđã bộc lộ nhiều bất cập và không còn phù hợp.
Hai là,một số cấp ủy đảng, chính quyềnchưa nhận thức đầy đủ các quan điểm chỉ đạo của Đảng, quy định định của Nhà nước về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở; chỉ đạo thực hiện QCDC chưa sâu sát, thiếu kiểm tra đôn đốc.
Ba là,công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện QCDC ở một số đơn vịcòn hạn chế.
Bốn là, một bộ phận nhân dân nhận thức về chủ trương, chính sách, pháp luật, mối quan hệ dân chủ với kỉ cương pháp luật, quyền lợi với nghĩa vụ công dân còn chưa đầy đủ nên còn bị lợi dụng, lôi kéo, khiếu kiện đông người, gây rối trật tự công cộng làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, sản xuất và đời sống nhân dân, gây khó khăn trong công việc chỉ đạo, điều hành.
Năm là,trình độ chuyên môn, năng lực và kinh nghiệm của cán bộ, công chức trong BCĐ QCDC ở một số đơn vị còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm so với yêu cầu thực tế đặt ra. Bên cạnh đó, thành viên BCĐ QCDC Quận và các phường tham gia vào rất nhiều các ban chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ khác nhau nên việc dành thời gian cho hoạt động của BCĐ QCDC còn hạn chế.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở tại Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đang là một đòi hỏi cấp bách trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về dân chủ cơ sở chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở tại Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội trên các nội dung sau:
- Phân tích, đánh giá, làm rò thực trạng thực hiện việc công khai cho nhân dân được biết; thực trạng tổ chức cho nhân dân được bàn; thực trạng tổ chức cho nhân dân tham gia giám sát. Từ thực trạng đó luận văn đã phân tích làm rò nguyên nhân của những thành tựu đạt được, nguyên nhân của những hạn chế khi triển khai Thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở tại Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
- Từ thực trạng triển khai thực hiện pháp lệnh dân chủ tại Quận Hoàn Kiếm, luận văn rút ra kết luận đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.
Đây sẽ là cơ sở thực tiễn quan trọng để tác giả luận văn đưa ra những yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật về dân chủ cơ sở và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về dân chủ cơ sở tại Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Chương 3:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢMTHI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞTẠIQUẬN HOÀN KIẾM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phương hướngthi hành pháp luật về dân chủ cơ sở
3.1.1. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng và các quy định của Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Thi hành pháp luật về dân chủ ở cơ sở là một quá trình, do đó cần từng bước tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm để xây dựng lộ trình tiến hành các bước tiếp theo hiệu quả hơn.
Bước đầu tiên đóng góp vai trò vô cùng quan trọng chính là việc tuyên truyền, phổ biến các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản của TW, của thành phố, của Quận về xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đến cán bộ, đảng viên, cán bộ công chức, công nhân lao động và nhân dân trong Quận Hoàn Kiếm. Các chỉ thị, nghị quyết ấy bao gồm: Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị ( khoá VIII), Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban bí thư ( khoá IX), Pháp lệnh 34 của UBTVQH ( Khoá XI), Nghị định 71, Nghị định 07, Nghị định 87 của Chính phủ và đặc biệt là triển khai thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 11 về pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đến tất cả mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nói chung và Quận Hoàn Kiếm nói riêng về dân chủ cơ sở, cần kết hợp với các hoạt động mang tính tổ chức thực tiễn nhằm nâng cao hiểu biết cho các chủ thể về dân chủ ở cơ sở và các lĩnh vực liên quan. Đó là các cuộc thi, hôi nghị phổ biến pháp luật, phổ biến kiến thức và kinh nghiệm thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đồng thời với các hoạt động
đó, cần kết hợp với việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trọng tâm là làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh các ngành, các cấp chỉ đạo, rà soát, bổ sung tiêu chuẩn cụ thể, sát hợp với từng đơn vị để tổ chức thực hiện, tiến hành đồng thời với việc rà soát, bổ sung quy ước, hương ước. Đối với việc triển khai thực hiện Nghị định 87/NĐ các ngành liên quan và Liên đoàn lao động tỉnh cần có kế hoạch chỉ đạo cụ thể đối với các công ty quốc doanh và ngoài quốc doanh, trọng tâm là hướng dẫn bổ sung các qui chế, quy định mới, phù hợp với qui định của Nghị định. Đồng thời với việc triển khai thực hiện Nghị định phải chỉ đạo thành lập các tổ chức đoàn thể, hội, công đoàn trong các đơn vị kinh tế này, nhằm phát huy vai trò làm chủ và các hoạt động giám sát của người lao động.
Kết hợp lồng ghép tốt các nội dung công tác trên đây, nhất là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” sẽ có tác động sâu rộng, thiết thực, hiệu quả đối với việc thực hiện các nội dung của pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
3.1.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên trong thực hiện dân chủ ở cơ sở
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 04/2015/NĐ-CP yêu cầu thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị “phải gắn liền với việc bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị”. Điều này vô cùng cần thiết để đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng lãnh đạo và quản lý công tác cán bộ. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện dân chủ tại cơ quan, đơn vị sẽ đảm bảo công tác dân chủ được thực hiện đúng định hướng, mục tiêu, hạn chế những biểu hiện xa rời dân chủ, lạm quyền, lộng quyền…
Pháp luật phải có những quy định chi tiết vềtrách nhiệm của chính quyền cơ sởtrong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn nội dung thực hiện dân chủ cơ sở đến với người dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có Hiến pháp và pháp luật ghi nhận các quyền của công dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung, trọng đại của cả nước, của từng địa phương, nêu đề xuất, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước. Các quyền đó là nền tảng, cơ sở quan trọng để người dân thực hiện dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng. Vì vậy, chính quyền cơ sở, ở đây cụ thể là Quận Hoàn Kiếm có nghĩa vụ triển khai những quy định của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đối với người dân.
Cấp uỷ, tổ chức đảng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để đưa ra việc xây dựng và thực hiện QCDC thành nề nếp.
Tổ chức đảng, đảng viên gương mẫu thực hiện QCDC, chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, Pháp luật Nhà nước, đi đầu trong việc thực hiên QCDC; thực hiện tốt quy chế chất vấn trong Đảng; đưa việc thực hiện dân chủ cơ sở thành một tiêu chuẩn để xem xét chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh, đảng viên đủ tư cách, đơn vị tiên tiến xuất sắc.
Cấp uỷ Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC cơ sở gắn chặt với việc lãnh đạo tăng cường công tác dân vận của các cấp chính quyền,phát huy vai trò của Mặt trận, đoàn thể để tạo hiệu quả tổng hợp.
3.1.3. Phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể trong việc thực hiện dân chủ đại diện; đồng thời vận động nhân dân phát huy dân chủ trực tiếp trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Với vai trò rất quan trọng trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Quận Hoàn Kiếm và các đoàn thể cần tiếp tục chỉ đạo đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng hoạt
động nhằm thống nhất hành động các tổ chức thành viên để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia thiết thực trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ đã nêu rò trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm ba việc: Phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong hội viên, đoàn viên và nhân dân chỉ thị này và các quy chế dân chủ ở cơ sở, làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng quyền và nghĩa vụ công dân, quyền của các tổ chức chính trị xã hội đã được quy định trong quy chế dân chủ và giám sát thực hiện các quy chế dân chủ ở cơ sở. Để thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm đã được thể chế hóa trong Nghị định 29, Nghị định 79 và nay là Pháp lệnh 334, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở cần phải tiếp tục triển khai các nội dung sau:
+ Nâng cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đạo đoàn kết toàn dân, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt pháp lệnh thực hiện dân chủ, phản ánh ý kiến của nhân dân về xây dựng Đảng và chính quyền, phát giác các hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Tham gia giải quyết các mâu thuẫn trong nhân dân, những khiếu kiện, thắc mắc của nhân dân đối với cán bộ cơ sở, với chính quyền Quận, phường. Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội phải thể hiện được vại trò của mình đối với nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân và thu hút, lôi cuốn quần chúng vào các hoạt động của mình. Mặt trận Tổ quốc phải thực sự là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng rãi nhất, tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
+ Đổi mới phương thức hoạt động, tập trung xây dựng chương trình công tác cụ thể gắn với từng địa bàn khu dân cư, từng đối tượng hội viên, đoàn viên. Từng tổ chức thành viên của Mặt trận phát huy tính chủ động