Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi
Lúc lại như một người bạn cùng Trần Đăng Khoa đùa nghịch trong mưa:
Cây dừa Sải tay Bơi (Mưa)
Cây tre có khi là người con gái đẹp với mái tóc dài:
Chị Tre chải tóc bên ao (Buổi sáng nhà em) Tần ngần
Gỡ tóc
(Mưa)
Có khi giống như những cậu bé chăm chỉ học tập “Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học” (Em kể chuyện này). Các con gà kiếm mồi trong sân cũng khơi dậy trong lòng Trần Đăng Khoa niềm yêu thương tha thiết. Trần Đăng Khoa không xem chúng là những con vật mà xem chúng cũng có tình cảm như người vậy:
Mày tớp mồi, nhằn nhường con tất cả Diều con no kềnh, diều mày vẫn lép không
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Cảm Đối Với Những Miền Quê Trên Đất Nước
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 7
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 8
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
(Nói với con gà mái)
Chính vì thế, khi gà con bị chết vì bom Mĩ, gà mẹ giận dữ, đau xót:
Trong mắt vằn những tia máu đỏ
Cái nhìn cháy như hai hòn lửa
…Máu tóe rồi, những ngón chân rách nát
…Lối rộng không đi, cứ lao vào vách đất Tiếng mày gọi con, tiếng con tiếng mất…
Và, hòn than trong thơ Trần Đăng Khoa biết yêu người thợ mỏ, muốn làm thơ để:
Ca ngợi Vịnh Hạ Long
Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền Con sống vẫn reo trên xác giặc Ca ngợi bác công nhân
Sớm sơm lên tầng
(Lời của Than)
4.2. So sánh
Một điều dễ thấy trong thơ thiếu nhi là các hình ảnh được các em so sánh ví von theo cách nhìn nhận của mình. Chưa thể giải thích, gọi tên được các sự vật nên các em lấy sự vật này để so sánh với sự vật kia.
Tập thơ Góc sân và Khoảng trời có đến rất nhiều bài thơ có sử dụng biện pháp so sánh. Trong mỗi bài lại có nhiều sự vật được so sánh: Hạt gạo làng ta, Lời của Than, Đi tàu hỏa, Bà và cháu, Điều anh quên không kể,… Trần Đăng Khoa hay dùng từ “như” để so sánh sự vật này với sự vật kia:
Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày…
(Hoa lựu)
Trăng hồng như quả chín…
(Trăng ơi… từ đâu đến…)
Cao cao ụ pháo như người đứng canh…
(Trận địa bỏ không)
Đôi khi Trần Đăng Khoa không dùng từ so sánh nhưng ta vẫn hiểu được:
Diều em - lưỡi liềm Ai bỏ quên lại
(Thả diều)
Cùng một sự vật nhưng Trần Đăng Khoa lại so sánh với nhiều hình ảnh khác nhau: Thả diều, Ngắm hoa, Trông trăng, Trăng ơi…từ đâu đến… Ánh trăng được Trần Đăng Khoa miêu tả nhiều trong thơ mình. Nhìn trăng, Trần Đăng Khoa liên tưởng và hay so sánh trăng với các vật khác nhau. Khi so sánh Trần Đăng Khoa lại thường xuyên biến đổi trong cách nhìn. Lúc trông vào hình dạng: “Trăng tròn như mắt cá - Chẳng bao giờ chớp mi”, “trăng như cái mâm con”, lúc trông màu sắc thì trăng vừa “hồng như quả chín” (trăng mới nhú) vừa “nở vàng như xôi” (trăng đã lên cao),… Trần Đăng Khoa còn so sánh cánh diều như chiếc thuyền trôi trên dòng sông Ngân Hà, như hạt cau phơi trên nong trời, như lưỡi liềm ai bỏ quên lại sau mùa gặt hái,… Nước của Hồ Gươm xanh trong được Trần Đăng Khoa ví như “pha mực”(Hà Nội). Đoàn tàu “như những con cá to” (Em về Hồng Gai). Bàn tay Bác Hồ thì “mát như kem sữa” (Em gặp Bác Hồ),… Những gì Trần Đăng Khoa so sánh mới ngây thơ và đáng yêu làm sao!
Có những sự vật chúng ta thấy bình thường nhưng qua cái nhìn trẻ thơ và cách so sánh ví von của Trần Đăng Khoa, chúng ta bỗng thấy mới lạ, đôi lúc lại trầm ngâm suy nghĩ. Mặt bão, bàn chân thầy giáo, Ngôi đền Bãi Cháy,… là những bài như thế.
Ai cũng biết khi cơn bão đi qua nơi nào là nơi đó bị tàn phá, bao nhiêu sức người trở thành cát bụi. thế nhưng, có ai trong chúng ta nghĩ đến khuôn mặt cơn bão? Trần Đăng Khoa đã làm điều đó. Bão trong cái nhìn của Trần Đăng Khoa làm chúng ta nhạc nhiên:
Bão đến ầm ầm Như đoàn tàu hỏa Bão đi thong thả Như con bò gầy
(Mặt bão)
Chỉ với hai hình ảnh: đoàn tàu hỏa và con bò ốm yếu, gầy guộc chúng ta hình dung được khuôn mặt của bão. Nó đến với sức mạnh hung hăng rồi bị suy yếu dần sau khi đã tàn phá những công sức mà con người vất vả tạo ra. Bài thơ chỉ có tám câu thôi nhưng ai chưa trải qua thực tế, chưa cảm thấy thấm thía sự mất mát do thiên tai gây ra thì không thể nào viết được những câu như thế.
Thường thì trẻ em hay so sánh những cái trừu tượng, khó hiểu, khó diễn tả với những cái cụ thể, dễ hiểu, dễ diễn tả. Ở một số bài trong tập thơ Trần Đăng Khoa không làm như thế. Nghĩa là, từ một điều cụ thể, Trần Đăng Khoa so sánh với điều trừu tượng. Từ những âm thanh của đoàn người đến gõ cửa Diêm vương, Trần Đăng Khoa cảm nhận:
Như thiên nhiên đang tạo sông dựng núi
Như trái đất đang hình thành…
Trần Đăng Khoa không dùng động từ mạnh để diễn tả âm thanh này, vậy mà chúng ta vẫn cảm nhận được sự quyết liệt, thôi thúc. Câu thơ so sánh gợi ra trước mắt chúng ta một cảnh hỗn loạn, ngổn ngang của vô số người đến Diêm Vương đòi công lí. Không cần nói ra số lượng, tự chúng ta biết được rằng: một vài người thì không làm tạo ra được cảnh đó. Đế quốc Mĩ với tội ác của chúng đã bị vạch trần.
Hình ảnh so sánh lạ còn xuất hiện khi Trần Đăng Khoa ngây ngất trước Hương
đồng:
Trời đất đêm nay Như chim mới hót Như rượu mới cất Như mật mới đong…
Bông hoa mà em Giang ngắm cũng khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc động:
Màu đẹp hơn tranh Càng nhìn càng thắm Như màu của nắng Như màu của mưa Dịu dàng non tơ…
(Ngắm hoa)
So sánh như vậy, Trần Đăng Khoa đã truyền cho người đọc cái cảm giác ngây ngất
của mình. Những hình ảnh trong thơ rất tinh khiết, gợi cảm. Không ai bắt tác giả phải giải thích rõ nắng mưa màu gì, tiếng chim mới hót nghe làm sao,... Chúng tôi nghĩ rằng, đây là một trong những nét khác biệt giữa thơ Trần Đăng Khoa và thơ của các em thiếu nhi khác. Chính cái cảm nhận tinh tế, sâu sắc và lạ lẫm đã thôi thúc Trần Đăng Khoa dày công tìm từ diễn đạt hết ý của mình.
Nếu chú ý hơn, chúng ta sẽ nhận thấy rằng ngoài biện pháp nhân hóa và so sánh, trong tập thơ còn có cả phép ẩn dụ. Những phép tu từ mà Trần Đăng Khoa sử dụng thường
được kết hợp tuyệt vời với khả năng nghe, khả năng giao cảm đặc biệt với vạn vật trong
đất trời:
À uôm Ếch nói ao chuôm
Rào rào Gió nói cái vườn rộng thênh Âu âu Chó nói đêm thanh
Te... te... Gà nói sáng banh ra rồi Vi vu, Gió nói Mây trôi
Thào thào Trời nói xa vời Mặt Trăng...
(Tiếng nói)
Qua ngòi bút của Trần Đăng Khoa, người ta thấy không gian nông thôn mới yên ả làm sao với cái mùi ngây ngây của bùn, hương nồng nàn của đất,... Bình dị là thế nhưng chính nơi đây đã trở thành máu thịt của con người, trong đó có Trần Đăng Khoa.
PHẦN KẾT LUẬN
Với cảm hứng từ thiên nhiên Trần Đăng Khoa đưa vào thơ mình những hình ảnh quen thuộc, gần gũi và thổi hồn vào cảnh sắc đó làm cho ta như được sống trong một làng quê Bắc bộ yên ả, thanh bình. Tâm hồn thi sĩ trong con người bé nhỏ rất nhạy cảm, tinh tế, lắng nghe và thấu hiểu mọi sự thay đổi, vận động của vạn vật dù là rất khẽ. Thế giới bên ngoài bình thường, quen thuộc bước vào thơ Trần Đăng Khoa mang nhiều nét mới lạ, độc đáo, ngộ nghĩnh. Trong thế giới đó, tất cả đều là bạn bè, đều có có niềm vui, nỗi buồn, đều mang hơi thở của riêng mình và của mọi người, mọi vật xung quanh.
Người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa vẫn lao động vất vả, khó nhọc nhưng năng động, yêu đời chứ không an phận như người nông dân trong ca dao xưa. Số phận của những em bé trong chiến tranh qua ngòi bút của Trần Đăng Khoa thật đáng thương. Những câu thơ của Trần Đăng Khoa không hoa mĩ, kiểu cách mà rất chân thành, sâu sắc, đầy ắp tình thương mến và tin tưởng.
Trần Đăng Khoa nhìn sự vật bằng trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú, độc đáo làm cho mọi sự vật, sự việc đã quen thuộc với mọi người trở nên mới mẻ, hấp dẫn, sinh động. Trần Đăng Khoa biết cách lựa chọn và nghiêm túc trong việc từ ngữ nên ngôn ngữ sử dụng trong thơ rất chính xác, giàu hình ảnh và gợi cảm. Trần Đăng Khoa nhìn mọi vật bằng cái nhìn của một em nhỏ nên các con vật, đồ vật đều có hồn, có hành động, tính cách. Cùng một sự vật nhưng mỗi thời điểm, tâm trạng khác nhau Trần Đăng Khoa có lối so sánh, nhân hóa khác nhau. Sự vật trong thơ Trần Đăng Khoa luôn vận động, sinh sôi, nảy nở chứ không tĩnh tại, im lặng. Nhạc điệu trong tập thơ rất phong phú. Mỗi bài có một nhạc điệu riêng phù hợp với đối tượng miêu tả, Tác giả biết vận dụng và vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt ca dao, đồng dao Việt Nam, biến cái chung của mọi người thành cái riêng của mình. Giọng thơ vừa hồn nhiên, trong sáng, thiết tha, vừa già dặn, triết lí gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ, suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời.
Với phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp đại học, người viết không có tham vọng tìm hiểu tất cả về thơ của Trần Đăng Khoa. Bằng tấm lòng yêu mến nhà thơ cùng những hiểu biết, tìm tòi của mình, người viết muốn khẳng định giá trị của tập thơ, những đóng góp của nhà thơ Trần Đăng Khoa cho nền văn học nước nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh Ngọc. 2001. Hồn thơ thế kỉ - Nxb Văn hóa thanh niên – Hà Nội.
2. Bùi Công Hùng. 2000. Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại – Nxb Văn hóa thông tin – Hà Nội.
3. Cao Đức Tiến. 2007. Văn học (Tài liệu đào tạo giáo viên) - Nxb Đại học SP, NXB Giáo dục.
4. Hoài Thanh.1999. Hoài Thanh toàn tập – Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Lã Thị Bắc Lý. 2003. Giáo trình văn học trẻ em – Nxb Đại học sư phạm.
6. Ngân Hà. 2003. Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình – Nxb văn hóa thông tin.
7. Nguyễn Duy Bắc. 1998. Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 – 1975), Nxb Văn hóa dân tộc.
8. Nguyễn Hữu Đảng. 2000. - Giai thoại văn học – Nxb văn hóa dân tộc – Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Long. 2007. Giáo trình văn họcViệt Nam hiện đại, tập II - Nxb Đại học sư phạm.
10. Nhà thơ Việt Nam hiện đại. 1984. Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện Văn học, Nxb KHXH – Hà Nội.
11. Phạm Hổ. 2003. Tuyển tập Phạm Hổ - Nxb Văn học – Hà Nội.
12. Toàn văn di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh. 1999. Nxb trẻ.
13. Trần Đăng Khoa. 2006. a. Góc sân và khoảng trời – Nxb Văn hóa dân tộc – Hà Nội.
. 1974. b. BáoTiền phong (ngày 16 /04/ 1974)
14. Trần Đăng Xuyền. 2003. Tạp chí Văn học (số 4).
15. Trần Đình Sử. 2004. Từ điển văn học bộ mới – Nxb Thế giới .
16. Trần Đức Ngôn (chủ biên).1994. Văn học thiếu nhi Việt Nam –Trường
ĐH Sư phạm Hà Nội – Hà Nội.
17. Vân Thanh. 1973. Tạp chí Văn học (số 2/ 1973).
18. Võ Gia Trị. 1999. Nghệ thuật văn chương và chân lí – Nxb văn học.
19. Xuân Diệu. 1991. Tạp chí Tác phẩm mới (số tháng 5, 6/1991).