Tình Cảm Đối Với Những Miền Quê Trên Đất Nước


sống:

Chưa bao giờ tất cả chúng em đều khóc Nước mắt chảy không kịp lau

Các em sẵn sàng đổi những nhu cầu vui chơi hàng ngày của mình để Bác Hồ được


Giá chúng mình được ngủ một giấc Ngủ không cần ăn bánh đi chơi

Để Bác Hồ sống mãi đời đời.

(Cẩm Thơ)

Nhưng điều mà các em mong muốn đánh đổi sẽ không bao giờ thành sự thật. Thế

nên, nỗi đau càng tăng thêm. Nỗi đau đã làm cho :

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

Trẻ nhỏ nghiêm trang như các cụ già Các cụ già khóc như trẻ nhỏ

Sinh thời, Bác rất kì vọng vào thế hệ trẻ của đất nước. Ghi nhớ sâu sắc niềm kì vọng

Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 6

đó, Trần Đăng Khoa tuy còn ít tuổi đã thay mặt cho tất cả thiếu niên hứa với Bác:

Cháu thề phấn đấu suốt đời

Như lời Bác dạy, như lời Bác mong.

Bác đã mất nhưng hình ảnh của Bác còn sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc, trong tim của mọi người, trong đó có các em nhỏ. Những điều Bác dạy lúc sinh thời chính là nguồn động viên để các em vượt qua nỗi đau mà phấn đấu trong học tập và lao động, chiến đấu. Bác đã đi xa chúng ta gần 40 năm nhưng tình cảm của cả dân tộc ta dành cho Bác không hề phai nhạt mà ngày càng đậm đà, thắm thiết, sâu sắc hơn. Bác đã trở thành hình tượng đẹp nhất trong các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ,… Bác trở thành người đại diện cho dân tộc Việt Nam khi chúng ta đứng trước bạn bè thế giới.

Trần Đăng Khoa đã có khoảng thời gian ngắn nằm viện điều trị bệnh mắt (1969).

Trong giấc mơ, Trần Đăng Khoa đã thấy Bác ân cần chăm sóc cho mình:

Có ai se sẽ ngồi xuống đầu giường Đưa bàn tay mát như kem sữa Xoa lên trán em đang dịu lửa

Vuốt lên mắt em đang mờ A, Bác Hồ!

(Em gặp Bác Hồ)

Khi Trần Đăng Khoa viết bài này, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã “đi gặp cụ Các Mác - Lênin” một vài ngày. Bài thơ được viết bằng nỗi nhớ thương da diết của một đứa bé dành cho người mà nó hết lòng yêu kính. Trong giấc mơ của Trần Đăng Khoa, Bác hiện lên như một ông tiên hiền lành, nhân hậu trong cổ tích. Nhưng ông tiên trong truyện cổ tích chẳng có được những cử chỉ chăm sóc tận tình như Bác dành cho một đứa bé, đặc biệt là lúc nó đang bệnh. Ông tiên Bác Hồ thì ân cần chăm sóc, gài từng khuy áo cho em khiến cho cơn bệnh giảm đi rất nhiều.

Trong cơn đau đớn, xót xa, mọi người thường bi quan nhưng Trần Đăng Khoa lại mang trong lòng niềm tin mãnh liệt: Bác vẫn còn, vẫn sống mãi với dân tộc và cả thế giới:

Nhưng Bác chỉ nghĩ ban ngày Chứ ban đêm là Bác rời linh cữu Bác chào chú đứng gác

Rồi đi vòng quanh khắp thế giới

Để chăm sóc trẻ con

Nhất là đứa nào phải nằm trong bệnh viện…

(Em gặp Bác Hồ)

Niềm tin ấy Trần Đăng Khoa thốt lên như thay lời cho cả non sông trong lúc những người khác đang đau khổ. Ngày nay, đi đến đâu ta cũng gặp dòng chữ có sức mạnh cổ vũ lớn lao tinh thần và sức lực của dân tộc Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.

Tình cảm đối với Bác Hồ là một nội dung đặc biệt góp phần tạo nên dáng vẻ riêng biệt của thơ thiếu nhi trong thời khi chống Mĩ. Sau này, vẫn có những bài thơ thiếu nhi viết về Bác nhưng có lẽ sẽ không có được cảm xúc nóng bỏng như thế.

3.4. Tình cảm dành cho các chú bộ đội

Trong thơ văn kháng chiến hay đề cập đến hình ảnh người chiến sĩ. Người chiến sĩ cùng với những phẩm chất tốt đẹp của họ đã trở thành đề tài, nguồn cảm hứng sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ,… Người chiến sĩ Việt Nam đã chiến đấu anh dũng và sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, và cuộc sống tự do cho dân tộc. Những trang sử vàng của chúng ta được viết bằng máu, Tổ quốc ta được dựng nên từ hài cốt của các chiến sĩ. Hình ảnh của họ trở nên cao quý trong lòng dân tộc với tên gọi thân thương, nghĩa tình: bộ đội.

Tuy còn nhỏ tuổi nhưng các em đã có nhận thức rằng giặc Mĩ là những kẻ tàn ác, hung bạo đã gây nên biết bao thảm họa cho đất nước, con người Việt Nam. Hình như chúng không có quả tim, không có nước mắt và máu của chúng chắc không phải màu đỏ nên Núp trong “Đất nước đứng lên” (Nguyên Ngọc) đã reo lên thích thú khi phát hiện ra một điều bấy lâu thắc mắc: thằng giặc có chảy máu không?

Cẩm Thơ thì chăm chú, say sưa khi nghe chú bộ đội kể về giặc Mĩ. Em thấy rất khinh khi bọn chúng “em mà có đói chả hèn thế đâu” và:

Muốn xin chiếc mũ tai bèo

Làm cô giải phóng vượt đèo Trường Sơn

(Chú giải phóng quân của em)

Mơ ước được là bộ đội, “đó quả là hiện tượng đánh dấu rõ nhất đặc điểm trong thời kì lịch sử chúng ta đang sống: chúng ta phải chiến đấu”(Vân Thanh).

Người chiến sĩ của chúng ta đã dũng cảm, kiên cường như một vị tướng trước kẻ thù là như thế. Nhưng khi trở về với cuộc sống thường ngày, với nhân dân thì họ rất gần gũi, giản dị, chan hòa nghĩa tình:

Cháu nghe chú đánh những đâu Những tàu chiến, những tàu bay rơi Đến đây chỉ thấy chú cười

Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi…

(Gởi theo các chú bộ đội) Ở một bài thơ khác, Trần Đăng Khoa viết:

Vách đền ai tạc tượng ông

Lửa quăn giáp sắt, kiếm cong tuốt trần Mặt hiền như bác nông dân

Nụ cười tươi sáng, mến thân đậm đà.

(Ngôi đền Bãi Cháy)

Trần Đăng Khoa lại nói đúng bản chất của bộ đội ta, nhân dân ta. Tất cả đều là “người hiền cầm gươm”, không chỉ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ mà là từ rất xưa đã vậy. Chúng ta yêu chuộng hoà bình, thích cuộc sống tự do và muốn con người ai cũng có cuộc sống tốt đẹp chứ nào thích chiến tranh, nào muốn đàn áp, chiếm đoạt đất đai, tài sản của dân tộc khác. Nhưng kẻ thù không như thế, chúng dày xéo lên đất nước, tự do, nhân phẩm và những gì mà chúng ta trân trọng. Ta đã không thể để cho chúng được thực hiện điều đó nên ta đã cầm gươm chống lại - đó là một sự bắt buộc không thể khác hơn.

Hết lòng yêu mến mà cũng hết lòng tin tưởng vào bộ đội, đó là tình cảm của các em. Khi nghe đài đưa tin giặc Mĩ ném bom Hà Nội, một nơi mà Trần Đăng Khoa chưa từng đến nhưng biết nơi đó là đất nước mình, nơi đó có Hồ Gươm, có Bác Hồ, Trần Đăng Khoa đã cất tiếng gọi vang:

- Các chú bộ đội ơi!

- Các chú bộ đội ơi!

Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi Hà Nội có Bác Hồ đang ở…

(Hà Nội có Bác Hồ )

Thông thường, khi tuyệt vọng, khi nguy khốn, chúng ta thường gọi người nào mà ta đặt trọn niềm tin yêu, nghĩ rằng họ sẽ là vị cứu tinh tuyệt vời nhất đối với mình. Trần Đăng Khoa, trong hoàn cảnh như thế, đó là tiếng gọi thật lòng và tha thiết nhất.

Trong mắt các em, các chú là những bộ đội yêu đời. Trong Chiếc ngõ nhỏ là hình

ảnh các anh vừa hành quân vừa hát khúc quân hành, bất chấp sự khắc nghiệt của thời tiết.

Ngày đêm phải đối mặt với kẻ thù, phải trực tiếp nơi chiến trường ác liệt, hơn ai hết các chú, các anh trân trọng và nâng niu những phút giây hiếm hoi được gần gũi với người thân, những phút giây hòa bình, dù chỉ là hòa bình trong chiến tranh:

Cánh đồng reo vui Gió đồng rộng rãi

Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại Bao nhiêu cái mũ lắng nghe

Xa xa từ một ngọn tre Tiếng chim chích chòe

đang

hót...

(Tiếng chim chích chòe)

Tiếng chim bỗng trở thành sứ giả của hòa bình. Với bài thơ khá ngắn này, Trần

Đăng Khoa “đã sờ được, đụng được cái tinh vi lớn lao của sự sống!” (Xuân Diệu).

Lớp trẻ chúng tôi có một hạnh phúc là được sống trong hòa bình. Những diễn biến, sự kiện chiến tranh chỉ được biết qua lời kể. Chúng tôi được kể rằng, mỗi khi có đoàn văn công đến phục vụ văn nghệ là các anh như được tiếp thêm sinh lực dù các tiết mục ca múa hết sức đơn sơ, diễn viên ít trang điểm và thiếu thốn đạo cụ. Và các đoàn văn công với các con người tài năng và dũng cảm ấy đã bất chấp mưa bom bão đạn, đi hết đơn vị này đến đơn vị khác để phục vụ văn nghệ, tiếp thêm ngọn lửa cho chiến sĩ. Điều đó phải chăng là trong mỗi chiến sĩ có một nghệ sĩ ở trong đó? Các anh hát, các anh đàn và xung quanh là những mẹ, những chị, những em say sưa lắng nghe như uống từng lời. Tiếng đàn hát ấy góp phần xóa đi “những âm thanh nhơ bẩn” mà kẻ thù đã tạo ra trên đất nước chúng ta. Chiến tranh của đế quốc Mĩ có thể giết hại được con người chứ không thể giết được tâm hồn Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã thay lời dân tộc Việt Nam dõng dạc khẳng định với kẻ thù:

Xiềng xích chúng bay không khoá được Trời đầy chim và đất đầy hoa

Bom đạn chúng bay không giết được Lòng dân ta yêu nước thương nhà.

(Đất nước)

Các chú bộ đội trong thơ Trần Đăng Khoa là những người rất thân thiện, vẫn thường gánh nước giúp mẹ giúp chị, sửa lại mái nhà cho các cụ già và yêu thương các em nhỏ :

Kẹo xanh, kẹo đỏ rất nhiều

Đứa nào anh cũng chia đều như nhau

Đứa nào anh cũng xoa đầu

Đứa nào anh cũng bế lâu trong lòng

(Kẹo hồng kẹo xanh)

Được yêu thương nhưng các em không xem đó là một chuyện dĩ nhiên mà rất biết

ơn các chú bộ đội. Các chú bộ đội chính là người đem lại sự yên bình cho mọi người:


và:

Chú giết giặc

Để cứu các em bé Để cứu các bà mẹ Để cứu các cụ già...

(Thù này phải trả đến đến đời con – Nguyễn Hồng Kiên)


Giữ cho cháu trọn tiếng cười

Góc trời đỏ ngói khoảng trời xanh Khoảng trời chỉ để chim bay

Góc trường chỉ để ngày ngày cháu vui

(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)

Có món ngón gì ngon nhất, đẹp nhất, các em đều nhớ đến các chú. Trồng một cây lựu, ngày ngày chăm sóc đến lúc nó ra quả thì Trần Đăng Khoa nghĩ ngay đến việc biếu tặng:

Em ăn thấy nó ngọt bùi

Tặng chú bộ đội, chú cười với em

(Hoa lựu)

Các chú về thì các em vui đùa, ca hát, đến khi các chú tiếp tục lên đường thì các em nhỏ rất tiếc nuối, chẳng muốn rời xa. Các chú như đã trở thành một trong những thành viên trong gia đình của các em, dù thời gian các chú ở lại chỉ trong vài ngày hoặc vài giờ ngắn ngủi mà thôi:

Các chú đã đi xa rồi

Cao cao ụ pháo như người đứng canh

(Trận địa bỏ không) Nguyễn Hồng Kiên cũng luyến lưu trong phút chia tay:

Đoàn người dài tít tắp Khuất dần sau lùm cây Những ngôi sao trên trời Nháy mắt

Nhìn theo Lùm tre Vỗ tay Reo

Câu chữ càng lúc càng ít như những bước chân của các chú đã đi xa. Em vẫn đứng mà nhìn theo những bóng dáng oai hùng mà gần gũi, thân thương ấy cho đến lúc bóng các chú mất hút.

Người ta bảo rằng trẻ con nhớ rất lâu, nhất là những người chúng yêu thương. Trần Đăng Khoa cũng thế, luôn mong mỏi một ngày nào đó các chú sẽ lại trở về với thôn xóm, lại chơi đùa với mình:

Vẫn mong các chú trở về

Lại ngồi với cháu bên hè đánh bi.

(Gửi theo các chú bộ đội)

Bộ đội ta vừa là người anh, người bạn vừa là người thầy giáo của cá em nhỏ (trong đó có Trần Đăng Khoa) dù các anh không cầm tay nắn chữ, dù không phải bộ đội nào cũng trực tiếp đứng lớp giảng bài. Nhưng, qua những cuộc hành quân gian khổ, những chiến công và những hi sinh của mình, các anh đã dạy các em nhỏ thật nhiều bài học về lòng yêu Tổ quốc, lòng biết ơn những người đã hi sinh thân mình để bảo vệ cuộc sống yên vui cho các em, về trách nhiệm của một công dân đối với đất nước, nhất là trong hoàn cảnh khói lửa đạn bom. Trần Đăng Khoa đã gọi một cách thân thương, trìu mến, thiết tha:

Chú thành thầy giáo cháu rồi

Dạy cho cháu học làm người Việt Nam.

(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)

Nhiều đức tính tốt đẹp, nhiều chiến công như thế nhưng các chú bộ đội rất khiêm tốn. Các chú kể về Cổng Trời, về miền Nam, về sự thất bại của quân Mĩ khi chúng thực hiện cuộc chiến tranh phi nghĩa ở đất nước ta. Mỗi lần gặp lại bội đội là các em nhỏ được nghe những điều mới vừa xảy ra:

Chi tiết long lanh, mới như ban ngày

Trí nhớ anh vô tận và dạt dào như sông, như bể.

Các anh có thể kể chuyện một cách say sưa về các trận chiến đang xảy ra ở Việt Nam và sẵn sàng trả lời các thắc mắc (dù là ngô nghê) của các em. Nhưng các anh không bao giờ nói về mình. Trần Đăng Khoa đã nhận ra điều đó:

Chỉ có một điều anh quên kể

Anh vừa được tuyên dương là một anh hùng.

(Điều anh quên không kể)

Những người bộ đội đó là những anh nông dân, những “chị thanh niên xung phong

– áo bạc màu nắng gió” (Đi tàu hỏa) và cũng có khi đó là những thầy giáo - Những thầy giáo tạm rời lớp học, tạm xa những đôi mắt ngây thơ của học trò, tạm xa “Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà - Mái chèo nghiêng mặt sông xa” để theo tiếng gọi của non sông khiến cho các em học trò rất luyến lưu không muốn rời nhưng “vẫn cười vẫn hát để thầy đi xa” (Thầy giáo đi bộ đội).

Năm 1972, Trần Đăng Khoa gặp lại thầy giáo cũ. Niềm hân hoan và nỗi đau xót hòa trộn vào nhau bởi vì Trần Đăng Khoa nhận ra ở thầy có một điều khác lạ. Thầy bây giờ trở thành thương binh, đã để lại một chân ở vùng đất máu lửa nhưng chan chứa yêu thương của Tố quốc. Trần Đăng Khoa bồi hồi nhớ lại năm 1966 em đã tặng cho thầy bài thơ “Hỏi

đường” – bài thơ được viết bằng tất cả sự yêu mến và thương nhớ và tự hào của một học trò dành cho thầy giáo, của một em thiếu nhi dành cho chú bộ đội. Giờ thấy thầy với đôi nạng gỗ, vẫn tiếp tục dạy hoc, tiếp tục cống hiến cho cuộc sống, cho đất nước, trong Trần Đăng Khoa dâng lên niềm xót xa, cảm thấy mình chưa xứng đáng với sự hi sinh lớn lao đó:

Dấu nạng hai bên như hai hành lỗ đáo Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo Như nhận ra cái chưa hoàn hảo

Của cuộc đời mình

(Bàn chân thầy giáo)

Trần Đăng Khoa và các bạn nhỏ cùng trang lứa luôn mang trong lòng một suy nghĩ

- suy nghĩ rất người lớn về trách nhiệm của một người dân khi đất nước bị xâm lược:

Các anh đi quét sạch quân xâm lược Em ở nhà, lòng bứt rứt sớm trưa

Biết bao điều em không thể nói được bằng thơ…

(Thư thơ)

Tình cảm của cậu bé Trần Đăng Khoa dành cho bộ đội thật sâu sắc. Càng thêm yêu mến và tự hào về họ hơn khi họ hi sinh vì đất nước. Trong số các bài thơ mà Trần Đăng Khoa viết về bộ đội, Trần Đăng Khoa có dành riêng một vài bài để tặng cho anh Lê Lâm Ứng và các chú bộ đội Quân giải phóng miền Nam (Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên), gửi anh đã đến thăm em (Thư thơ), cô Bưởi (Em dâng cô một vòng hoa, Về thăm cô Bưởi).

Cậu bé Trần Đăng Trần Đăng Khoa ngày ấy và nhà thơ Trần Đăng Khoa ngay nay vẫn luôn dành tình cảm đặc biệt đối với nữ liệt sĩ Mạc Thị Bưởi. Mạc Thị Bưởi (1927- 1951) là một du kích ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cô tham gia cách mạng rất tích cực và hi sinh ở tuổi 24. Cô Bưởi hi sinh lúc Trần Đăng Khoa chưa sinh ra. Những gì về cô Trần Đăng Khoa được nghe từ bố mẹ và những người xung quanh. Ấy thế mà trong lòng cậu bé Trần Đăng Khoa rất yêu quý, trân trọng và biết ơn cô:

Cô ơi!

Sông nước gọi tên

Nắng mưa phục kích trăng lên đánh đồn Thương cô sóng cuộn quanh cồn

Nhát dao giặc giết…em còn thấy đau.

(Em dâng cô một vòng hoa)

Bốn năm sau, Trần Đăng Khoa đã nhận thức được một điều: Các anh hùng liệt sĩ vẫn sống mãi trong trái tim của dân tộc ta. Trần Đăng Khoa đã nói thay tấm lòng của mọi người khi em Về thăm cô Bưởi:

Bóng cô đi giữa triệu người

Hôm nay và cả muôn đời mai sau…

(Về thăm cô Bưởi)

3.5. Tình cảm đối với những miền quê trên đất nước

Chúng ta thường mang trong đầu một ý nghĩ rằng cảm hứng đối với những địa danh trên đất nước chỉ có ở những nhà văn, nhà thơ từng rong ruổi trên các nẻo đường đất nước mới có được. Ý nghĩ ấy đúng nhưng không hoàn toàn, bởi có những người chưa một lần đến với miền đất nào đó nhưng vẫn có thể có tình cảm thiết tha sâu nặng. Bác Hồ của chúng ta đau đáu hướng về miền Nam thân yêu: “miền Nam trong trái tim tôi”. Tâm nguyện của Bác là sau khi thống nhất nước nhà sẽ vào miền Nam cho thỏa lòng mong nhớ. Vậy mà, đến cuối đời, tâm nguyện ấy vẫn chưa đạt được. Chế Lan Viên không đến Tây Bắc nhưng vẫn viết được bài thơ rất hay về Tây Bắc. Nhà thơ nhỏ tuổi Trần Đăng Khoa cũng tiếp nối tinh thần đó. Lúc nào em cũng mong muốn mình được đến với các miền Tổ quốc yêu thương:

Em muốn con tàu này Đưa em đi khắp đất nước Ôi tổ quốc! Tổ quốc!

(Đi tàu hỏa)

Với niềm mong ước đó, Trần Đăng Khoa đã tâm sự cùng Than - người bạn thân thiết, chân thật. Than giống như một nhà hiền triết nói lên tiếng nói của dân tộc có lịch sử bốn ngàn năm văn hiến. Than lại giống như một nhà thơ. Nhà thơ Than sẽ làm thơ ca ngợi cuộc sống, ca ngợi đất nước cùng với những truyền thống chống giặc ngoại xâm:

- Tôi muốn làm thơ

Ca ngợi Vịnh Hạ Long

Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền Con sóng vẫn reo trên xác giặc Ca ngợi bác nông dân

Sớm sớm lên tầng.

(Lời của Than)

Những nẻo đường hành quân của các chú bộ đội đến khắp nơi trên đất nước cũng làm Trần Đăng Khoa liên tưởng đến những vùng đất đó dù chỉ là những lá thư:

Chú thì đương Sơn La Chú thì ra Cồn Cỏ Chú thì giữ Hàm Rồng Chú thì xa, xa nữa…

(Bà và cháu)

Khi viết bài thơ tặng nhà thơ Tố Hữu, Trần Đăng Khoa cũng đã gửi lòng về xứ Huế mộng mơ - quê hương của Tố Hữu:

Chú ngồi với cháu trong phòng

Mái chèo nghe động một dòng Hương Giang

Xem tất cả 80 trang.

Ngày đăng: 11/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí